Lịch sử châu Âu/Mở đầu:Hoàn cảnh lịch sử châu Âu

Tủ sách mở Wikibooks

Lịch sử châu Âu: 00 · 01 · 02 · 03 · 04 · 05 · 06 · 07 · 08 · 09 · 10 · 11 · 12 · 13 · 14

Mở đầu[sửa]

Bức tranh từ Pompeii cho thấy cảnh huyền thoại về Europa, khi để bắt được Europa, thần Zeus đã cải trang thành một con bò đực.

Quyển sách này trình bày một cái nhìn tổng quát về lịch sử châu Âu, từ sự sụp đổ của Đế chế La Mã đến hiện tại, tức khoảng thế kỉ thứ 5 đến thế kỉ 20. Đây có thể nói là một khoảng thời gian khó xác định, nhưng không hoàn toàn vô ích. Dù các bằng chứng khảo cổ học đã cho thấy châu Âu diễn ra liên tục các chuyển biến trong hàng chục ngàn năm, tuy nhiên bằng chứng cho thấy những trật tự của chính trị và xã hội của nhóm người này rất khan hiếm, nếu không muốn nói là không có. Do đó, lịch sử châu Âu trong thời gian đầu hầu hết là về lịch sử về công cụ và nơi ở của họ.

Thời kỳ đồ đá mới (7,000 TCN đến 3,000 TCN)

Sự phổ biến ngành trồng trọt và làm đồ gốm chính là đặc trưng của thời kỳ đồ đá mới. Rìu đá và công cụ microlith rất phổ biến vào thời kỳ này, dù chúng xuất hiện từ trước đó. Chiếc rìu đá, tuy thô sơ trong cách chế tạo, nhưng đã có thể chặt phá rừng. Cũng sẽ rất bình thường khi nhận định rằng hầu hết dụng cụ thời kỳ này làm bằng gỗ, vì sự phát triển của nông nghiệp và sự ra đời của đòn gánh và lưỡi cày bằng gỗ. Tuy nhiên, vì gỗ không phải là vật liệu bền, vì vậy rất hiếm thấy bằng chứng khảo cổ học về điều này. Bằng chứng về một xã hội trồng trọt được tìm thấy vào 9.000 năm TCN ở trên lục địa Á, và được tin rằng trồng trọt phổ biến sang châu Âu trong hai thiên niên kỷ tiếp theo. Có một tranh luận cho rằng sự phát triển và nâng cao kĩ thuật nông nghiệp là do lãnh thổ ấy độc lập làm nên, và không chịu ảnh hưởng của bất kì khu vực nào ngoại trừ chính lãnh thổ ấy. Tuy nhiên, giả thiết này cần nhiều bằng chứng cụ thể hơn. Vì những mục đích của tác giả, phần này, sự phổ biến nông nghiệp sẽ được xem xét theo thuyết lan rộng từ đông sang tây.

Biển Aegan và Nam Âu

Bằng chứng đầu tiên về nông nghiệp ở châu Âu là ở Knossos, đảo Crete, Hy Lạp, vào thiên niên kỷ thứ sáu. Thời tiết ôn hòa của biển Aegea và các đảo nhỏ gần đó là điều kiện lý tưởng để phát triển nông nghiệp lúc bấy giờ. Đồng thời, làn sóng di cư của các bộ tộc phía đông cũng thành lập các cộng đồng nông nghiệp vùng biển Aegea và ven biển vùng hiện nay là Thổ Nhĩ Kỳ và Hy Lạp. Vì vậy, không phải ngẫu nhiên mà người La Mã tin rằng họ là hậu duệ của Aeneas, người hùng huyền thoại của thành Troy trong truyền thuyết và huyền thoại của người Đông Âu. Crete là một trong những hòn đảo lớn trong biển Aegea, nằm giữa biển Bắc Phi, bán đảo Nam Âu và biển Tiểu Á, là vùng đất có tài nguyên thiên nhiên và diện tích lớn nhất so với các đảo khác trong biển Aegan, đủ để duy trì cuộc sống của một nhóm người. Người đầu tiên sinh sống ở đảo Crete là vào năm 6.500 TCN, đi cùng với họ là kĩ thuật nông nghiệp và đi biển, hai yếu tố đóng vai trò lớn nhất trong sự phát triển của Crete.

Ở giữa phần lục địa của Hy Lạp, khu vực Thessaly, hàng trăm ngôi nhà thời kỳ đồ đá mới được phát hiện thông qua khảo cổ học thực địa, lập bản đồ từ trên không và phân tích quang phổ từ vệ tinh. Những đồng bằng phù sa của khu vực này đặc biệt lý tưởng với trồng trọt và chăn nuôi. Bằng phân tích các mảnh sành sứ và những căn nhà, có thể thấy đây là khu vực có lối sống văn hóa phát triển khác thường và có phong cách kiến trúc “lem nhem”.

Bắc Âu

Nhà ở Piles ở Vingelz, Thụy Sĩ (3.000 TCN), rìu đá và nhà ở gần khu vực có nước là điển hình của một xã hội nông nghiệp được tìm thấy ở Áo, Pháp, Đức và nhiều nước khác ở châu Âu. Những ngôi làng thời kỳ đồ đá mới xây gần hồ nước và vùng trũng nước ở dãy núi Alps cho thấy sự định cư trong vòng 4.500 năm tiếp đó. Dãy Alps không gây nhiều trở ngại cho việc trao đổi thương mại, vì theo phát hiện khảo cổ học về mảnh sành, dụng cụ đá và cấu trúc nhà ở đều cho thấy sự tương đồng chỉ có thể giải thích bằng tiếp xúc và trao đổi. Những “ngôi làng” này có thể đã trao đổi với những bộ tộc khác qua lại dãy Alps tuy điều này ít nhiều bị hạn chế bởi dân số ít và thiên về tính bộ tộc hơn là tính quốc gia.

Độc giả nên lưu ý rằng các khu vực châu Âu đều phát triển ở thời điểm khác nhau, dù mạng lưới thương mại đã được hình thành ở giai đoạn này. Điều này cho phép một mức độ thống nhất hóa nhất định giữa các giai đoạn phát triển, để có thể nhóm lịch sử châu Âu dựa vào phát hiện khảo cổ học, thường là công cụ, dụng cụ và vũ khí.

Thời kỳ đồ đồng (3,000 TCN đến 700 TCN)

Sự phát triển của nền văn minh Minoan (3000 TCN đến 1100 TCN), nền văn hóa Mycenae và sự ảnh hưởng của nó lên các hòn đảo trong biển Aegea và Hy Lạp đã hình thành nên những trang sử đầu của Nam Âu. Khám phá ra những nền văn minh này là của thế hệ nhà khảo cổ học trong những năm 1800, những người học về văn học dân gian cổ, tuy nhiên, chú tâm đến yếu tố sử học hơn là thần thoại, tâm linh. Những mô tả về vị vua và thành quách trong sử thi Iliad được phân tích thành các yếu tố dân tộc học và địa lý học, cũng như vị trí của họ. Heinrich Schliemann và Arthur Evans là hai nhà tiên phong trong lĩnh vực nghiên cứu này. Schliemann đã tìm kiếm thành Troy ở bờ biển thuộc Thổ Nhĩ Kỳ hiện nay, còn Arthur Evans tìm kiếm các thành thị ở các đảo thuộc biển Aegea. Schliemann, người đã có phần nào tài sản từ các hợp đồng trong Chiến tranh Krym, quay trở lại vùng Hissarlik thuộc Thổ Nhĩ Kỳ để nghiên cứu. Những kết quả nghiên cứu trước đó dẫn đến ý kiến rằng vùng đất ấy thành phố huyền thoại Troy trong sử thi Iliad mà cho tới giờ vẫn còn được biết tới với hình ảnh con ngựa gỗ. Schliemann là người đầu tiên tiến hành khai quật khu vực này, sự khám phá thành Troy của ông được xem là cuộc nghiên cứu hiện đại đầu tiên về lịch sử cổ đại thông qua văn học dân gian. Không quá lâu sau khi Schliemann khám phá thành Troy khi Evans tìm ra văn minh Minoan trên đảo Crete. Schliemann tiếp tục có một khám phá lớn, đó là văn hóa Mycenae trên các đảo thuộc biển Aegae. Một khám phá cực kỳ quan trọng với lịch sử châu Âu thuộc về Arthur Evans với bản thảo Linear B ở Knossos (Crete). Đây là bản khắc bằng đất sét thể hiện chữ Hy Lạp cổ từ thiên niên kỷ thứ 2. Đây là tiếng Hy Lạp dạng cổ nhất, và mối liên hệ quan trọng giữa nó và sử thi Iliad của Homer là nền tảng cho chúng ta hiểu biết và nghiên cứu về lịch sử Aegae thời kỳ đồ đồng.

Thời cổ điển (700 TCN đến 500 TCN)

Đền Parthenon ở Athens.

Sự phát triển các thành thị ở Hy Lạp từ năm 1000 TCN tiếp nối văn minh Minoan và văn hóa Mycenaean ở khu vực này. Tuy vậy, người Hy Lạp có một quan điểm khác về cách điều hành và về các thành thị, họ thiên về sự tham gia của công dân, mà trong đó Athens ở thế kỷ thứ năm TCN là đỉnh cao của quan điểm này. Một khía cạnh khác biệt của xã hội Hy Lạp là sự tồn tại của thành thị Sparta ở phía Nam bán đảo Peloponnese. Sparta là một khu vực quân sự mạnh trong khu vực Formidible và là đối thủ của Athens trong suốt Thời cổ điển. Đó là mối quan tâm với những người Athens như triết gia Plato, người nghiên cứu về các cách tổ chức, điều hành khác nhau trong sách Cộng hòa, bao gồm hệ thống chiến binh tinh nhuệ của Sparta. Trận Thermopylae của 300 chiến binh Sparta chống lại quân xâm lược Nam Tư đã cho thấy rõ nét nhất về bản chất của Sparta. Các vùng khác của Hy Lạp, cho dù được cai trị bởi một ông vua hay một nhà độc tài, cũng không bằng nổi với chính sách thắt lưng buộc bụng của Sparta, nhằm xây dựng nền quân sự vững mạnh. Lịch sử của đại lục Hy Lạp cổ đại chủ yếu xoay quanh những xung đột giữa Athens và Sparta, cùng đồng minh của chúng như liên minh Delian của Athens và liên minh Peloponnese của Sparta. Quan niệm cho rằng thành thị nắm giữ quyền lực đơn lẻ mạnh đến mức các thành thị Hy Lạp chỉ gác mối thù hận với nhau khi có quân xâm lược và tất cả đều bị đe dọa. Khi ngoại xâm đã giải quyết, các thành thị lại tiếp tục thù địch nhau. Chính vì lục đục nội bộ như vậy mà người Macedonia mới nắm quyền kiểm soát lên Hy Lạp. Người La Mã xem việc xâm lược này của Macedonia là một mối đe dọa và tiên đoán rằng sẽ có xung đột xảy ra, và La Mã sẽ chiếm cả Hy Lạp (vì trong Chiến tranh Macedonia lần thứ 4, La Mã đã chiếm được Macedonia).

Vị trí quan trọng của Athens trong thế kỷ thứ năm TCN cũng là khởi điểm xâm lược của Rome, lúc bấy giờ chỉ là thành thị giữa các bộ tộc và thành thị khác. Sự bành trướng của La Mã bắt đầu từ hình thức liên minh hoặc xung đột với các vương quốc Latium khác để củng cố vị trí trung tâm trong khu vực. Cuối cùng, Rome là một thành thị mạnh, sau đó Magna Graecia (thành thị Hy Lạp ở phía nam Ý) cảm thấy có nghĩa vụ phải liên minh với Rome. Chia rẽ nội bộ ở Ý đã dẫn đến chiến tranh Samnite (bộ tộc ở khu vực trung tâm Ý). Tiếp đó, chiến tranh với Carthage càng củng cố thêm vị trí của Rome trong khu vực. Thành thị này cũng đã xâm lược bắc Eustrucan và các bộ lạc xung quanh, cũng như giành chiến thắng trước thành thị, bộ lạc khác ở trung tâm khu vực. Miền Nam Ý ngày nay cũng thuộc Rome, với vai trò bảo hộ chống lại sự xâm lược của Carthage khi Carthage liên minh với Vương quốc Aegea chống lại Rome. Rome đã chiếm được hầu hết Ý vào khoảng năm 272 TCN. Sự thống trị Ý làm Rome cảm thấy đủ tự tin để tiến hành các hoạt động quân sự chống lại Carthage. Ý trước đó đã có kinh nghiệm chống trả Carthage nên lúc đó trở nên rất sẵn sàng tiêu diệt Carthage. Rome tiêu diệt Carthage vào năm 148 TCN và gạt thành thị này khỏi lợi ích từ Aegea và Tây Ban Nha sau khi ép Carthage thừa nhận hòa bình. Như vậy, Rome đã mở rộng lãnh thổ đến gần Aegea và Tây Ban Nha. Carthage bị phá hủy, và cư dân bị những người La Mã đuổi đi.

Đế chế La Mã đã đạt đến đỉnh cao vào thời kì Augustus (từ 50 TCN đến 20). Mặc dù Rome là một nước cộng hòa trải qua nhiều cuộc chinh phạt, tuy nhiên, đến thời Augustus, đế chế này mới đón nhận lần bành trướng lãnh thổ lớn nhất. Cũng chính từ giai đoạn đó, Cộng hòa La Mã chỉ còn tồn tại trong trí tưởng tượng của người dân và các sử gia. Triều đại của Augustus đã chính thức khép lại nền cộng hòa, bắt đầu trở thành đế chế. Dù các biểu ngữ đều ghi rằng “SPQR” (Senatus Populusque Romanus – Thượng Nghị viện và Nhân dân Rome), nó khẳng định rằng giá trị của nền cộng hòa giờ chỉ còn cúi đầu trước ý nguyện của hoàng đế. Thời kì Augustus được xem là giai đoạn vàng của Rome – hòa bình và ổn định trong giai đọan này đã làm nền văn hóa – nghệ thuật của Rome phát triển. Tình hình này nếu tiếp tục thì Rome sẽ là cường quốc của thế giới, tuy nhiên, trong thế kỉ 3 và 4, những áp lực đè lên đế chế này dẫn đến sự khước từ vài tỉnh của Rome.

Trong quá trình diệt vong của Đế chế La Mã từ thế kỉ 4 trở đi, châu Âu chứng kiến sự suy giảm kết nối giữa các thành thị trung tâm (bằng chứng là giảm sút trong xây dựng đường xá và bảo trì đường), đặt nền móng cho việc nhìn nhận và cơ cấu lại các tỉnh La Mã, và đến thế kỉ 11 thì đã hình thành các quốc gia nhỏ, làm phong phú thêm cho khu vực. Từ thế kỉ 11 trở đi, các quốc gia này dần trở thành tiền thân của các quốc gia hiện đại ở châu Âu. Điều này một phần cũng do thành lập ngân hàng, tiến hành thương mại quốc tế và sự phát triển của các tỉnh “đi buôn” như Venice, nhằm kiểm soát hàng hóa từ phương Đông. Thế kỉ 5 được xem là ranh giới của lịch sử cổ và hiện đại.

Địa lí[sửa]

Rất dễ nhận thấy rằng châu Âu không phải là một đơn vị địa lý rời rạc, vì thế nền văn hóa của châu Âu luôn luân chuyển vượt khỏi biên giới của châu lục. Những người dân thời Trung Cổ của Ý và Tây Ban Nha có nhiều điểm giống nhau với các nước Bắc Phi hơn là những nước cùng châu lục là Đức và Anh. Cũng như vậy, miền Đông Âu, chiếm phần lớn là Nga cho thấy rõ sự ảnh hưởng sâu sắc nền văn hóa của châu Á, và lịch sử vùng này gắn liền với phía đông (châu Á) hơn là phía tây (châu Âu).

Một điểm quan trọng cần lưu ý rằng châu Âu có biên giới rất dễ xâm nhập. Ở phía Nam, các nước Bắc Phi chỉ cách một chuyến tàu nhỏ để đến các nước Địa Trung Hải của châu Âu. Ở phía Đông, châu Âu chỉ ngăn cách khỏi châu Á bằng những kênh ngắn, và các nền văn hóa trọng điểm của khu vực này là Đế chế Byzantine và Ottoman thì lan truyền giữa Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ. Điểm cực Đông của châu Âu, ngăn cách với châu Á là dãy núi Ural, và chính thời tiết chứ không phải là do địa lý làm nên sự khác biệt khi đi từ đông sang tây. Chỉ có Đại Tây Dương ở phía Tây Âu có thể xem là biên giới địa lý rõ ràng nhất của châu Âu.

Trong việc học tập cũng như nghiên cứu lịch sử, xác định lĩnh vực nghiên cứu, học tập là điều rất quan trọng, và xem châu Âu như một đơn vị riêng biệt là một cách để đạt được điều này. Nhưng vì những lí do trên, ta phải chấp nhận rằng việc nghiên cứu châu Âu như một đơn vị địa lý rời rạc là một điều vô cùng khó khăn. Chính vì vậy, nên nhìn nhận vấn đề về địa lý của châu Âu không phải là một vấn đề. Các biên giới có phần mơ hồ của châu Âu sẽ không nên làm suy giảm nỗ lực nghiên cứu về châu lục này.

Cách tiếp cận, nghiên cứu lịch sử[sửa]

Lịch sử thường được thể hiện bằng những phương pháp tự sự, như các câu chuyện về tổ tiên chung của chúng ta. Đó đúng là sự thật, rằng lịch sử là một hình thức tự sự. Tuy nhiên, khác với những hình thức tự sự khác, lịch sử dựa trên sự kiện có thật, và những sự kiện đó, đều tuân theo một quy luật và quy tắc nhất định.

Chi phối việc nghiên cứu là cách sử gia đọc các tài liệu lịch sử. Trước khi sử gia có đủ tự tin để khẳng định một sự kiện cụ thể diễn ra, người đó trước hết cần bằng chứng. Nhiều bằng chứng là tài liệu dưới các hình thức, như bản viết tay của thế hệ cũ để lại trong sinh hoạt hàng ngày. Rất hiếm khi các tài liệu này được viết cho thế hệ sau này phỏng đoán, sử dụng, vì thế, các sử gia cần hiểu các thế lực đã định hình nên tài liệu đó.

Có một số tiêu chí như sau:

  • Động cơ của tác giả là gì?
  • Thái độ của số đông ở thời điểm đó liên quan đến vấn đề được nêu là gì?
  • Sự kiện trước đó đã tác động lên sự kiện này như thế nào?
  • Sự kiện tương tự là gì và kết quả của nó?
  • Sự kiện này sẽ tác động thế nào đến tương lai?
  • Tại sao sự kiện này diễn ra lúc đó mà không phải là sớm hay trễ hơn?
  • Sự kiện hay người này chịu tác động nào của xã hội? Các tác động đến từ giáo hội, điều kiện kinh tế, chính trị, địa lý của người đó cũng như giáo dục chung của xã hội, công nghệ, bản sắc dân tộc, văn hóa, phong tục tập quán và tầng lớp xã hội.

Tổng hợp lại, đây là những phương pháp đánh giá tài liệu lịch sử:

  • Xem xét tác giả của tài liệu
  • Xem xét ngày tháng của tài liệu
  • Xem xét độc giả mà tác giả nhắm đến của tài liệu
  • Xem xét mục đích của tài liệu
  • Xem xét thái độ của tài liệu
  • Xem xét ngụ ý của tài liệu (bằng suy luận)
  • Xem xét giới hạn của tài liệu

Sử dụng các phương pháp này sẽ giúp trong việc nắm bắt các sự kiện lịch sử được ghi trong sách này, nhằm có thể thu được kiến thức ngoài việc ghi nhớ đơn thuần.

Tất cả tác giả quyển sách này hi vọng quyển sách này là một phương pháp hữu hiệu để học tập về lịch sử châu Âu – dù trong kì thi Advanced Placement (AP) hay tốt nghiệp đại học, hay chỉ đơn giản là mong muốn đọc và hiểu thêm về lịch sử châu Âu.

Sự diệt vong của Đế chế La Mã[sửa]

Bức tượng đầu của Constantine Đại đế, hoàng đế theo đạo Thiên chúa giáo đầu tiên của La Mã. (Tác phẩm bằng đá hoa cương của người La Mã, thế kỉ 4)

Rất thông thường để nói về sự diệt vong của Đế chế La Mã, tuy nhiên, cách nói này có phần quá đơn giản và có thể gây hiểu lầm. Tất nhiên rằng nhà nước tập trung dưới quyền của Augustus Caesar và những người kế nhiệm ông đã bị xóa sổ khỏi lịch sử, nhưng pháp luật và ngôn ngữ mà Rome để lại cho một khu vực rộng trong châu Âu vẫn tiếp tục tồn tại rất lâu sau khi đế chế đã sụp đổ.

Giai đoạn sau sự diệt vong Đế chế La Mã đầy những bất ổn chính trị và xã hội. Hầu hết các cuộc bất ổn này là do sự sụp đổ của đế chế phương Tây này. Từ thế kỉ 3, La Mã hứng chịu áp lực từ các thế lực trong lẫn ngoài nước. Những bộ tộc mà La Mã chưa sáp nhập trong giai đoạn Pax Romana (Thái bình La Mã – chỉ giai đoạn hòa bình của La Mã) giờ đây nhận thấy các cơ hội để bành trướng lãnh thổ hay tấn công La Mã. Chi phí duy trì các tiền đồn và biên giới đã khiến cho đội quân tinh nhuệ phải ở biên cương vĩnh viễn vì đó là nỗ lực tốn kém đối với nhà nước trong giai đoạn này. Đối với nội bộ quân sự của Đế chế La Mã, điều này đồng nghĩa với việc quân sự đang là một thế lực chính trị quan trọng, và có khả năng quyết định đoạt các quyết định của Hoàng đế trong những giai đọan sau của Đế chế.

Dù La Mã đã chinh phục được phía đông và phía tây, thành thị này thấy rằng nó cần phải bành trướng thêm nữa. Với một đế chế lớn như vậy, thực sự cần phải mở rộng quyền công dân, và điều này làm các hoàng đế bị lôi kéo từ nhiều phía trong những năm cuối của đế chế. Những gánh nặng này như vẽ ra đường phân cách giữa các tỉnh phía tây và đông. Sự thật rằng Thành phố Rome bước vào giai đoạn khước từ tầm quan trọng của nguồn ngũ cấp nhập khẩu từ Ai Cập và các tỉnh miền đông khác mang ý nghĩa rằng Byzantium (ngày nay là Istanbul, Thổ Nhĩ Kỳ, trước gọi là Constantinople) dùng như sợi dây trói giữa miền tây và đông La Mã. Constantine đệ I, trong nỗ lực biến Constantinople thành đại diện của sự hội nhập giữa Tây và Đông của La Mã, đã vô tình tạo ra các điều kiện tốt để diệt vong đế chế. Sau cái chết của Constantine, phia tây đế chế bước vào thời kỳ khủng hoảng khi ba người con của ông tranh giành quyền cai trị La Mã. Cuối cùng Constantius II trở thành hoàng đế sau khi hai anh em của ông bị ám sát, và ông đã nuôi dạy người em họ Constantius Gallus lên chức vị Ceasar của phía đông đế chế. Đế chế La Mã khi ấy trở thành hai thế lưc riêng biệt, điều này đã định lịch sử thời Trung Cổ và trong Thiên chúa giáo trong vài ngàn năm tiếp đó.

Sức mạnh và sự ảnh hưởng giảm sút của La Mã dẫn tới thu hẹp dần văn hóa vốn từng thống trị các tỉnh thuộc đế chế này. Trên lãnh thổ của đế chế La Mã, nếu những công dân không-phải-Ý trước đây tiếp nhận văn hóa La Mã như cái trục để cuộc sống họ quay quanh, thì bấy giờ đã chú ý hơn đến bản sắc dân tộc của họ -- người Gauls, Tây Ban Nha, Anh, Bắc Phi lấp đầy khoảng trống văn hóa do sự rời đi của quân đội và sự thống trị của La Mã bằng chính phong tục và luật pháp riêng của mình. Thái bình La Mã ra lệnh bởi Augustus cho phép luật pháp và phong tục địa phương được ưu tiên hơn luật pháp của La Mã miễn các tỉnh chịu sự kiểm soát về quân sự và thuế. Điều này cũng có nghĩa rằng vào giai đoạn cuối của đế chế La Mã, các tỉnh được tự do trong các hoạt động quân sự và kinh tế của họ. Tuy nhiên, các tỉnh này cũng không gạt bỏ hết những gì La Mã đã ban. Latin trở thành ngôn ngữ chính (ligua franca) của kinh tế và chính trị, và những nét hay của luật pháp La Mã cũng được học hỏi một cách sâu sắc, đặc biệt là trong việc hệ thống hóa pháp luật. Những bộ tộc trước đó bị quân đội La Mã đánh đuổi bấy giờ rất có khả năng xâm chiếm lãnh thổ La Mã, hiện đang tụ quân tại biên giới lãnh thổ. Những bộ tộc này không xa lạ gì với văn hóa La Mã vì quan chức cũng như người dân đã tiếp xúc lâu dài với La Mã qua bộ máy chính trị và kinh tế của đế chế. Sau khi thiết lập xã hội song song với La Mã, họ xâm lược và rất dễ dàng hòa nhập được với dân La Mã. Quá trình xâm lược này kéo dài từ hai đến ba thế kỷ với sự thay đổi sâu sắc xã hội châu Âu và lãnh thổ cũ của La mã. Phần phía đông nói-tiếng-Hy-Lạp của đế chế giờ xem Byzantium như trung tâm vùng đất, và sự phân chia đế chế này sẽ là vĩnh viễn tới vài thế kỷ tiếp theo.

Một trong những hành động quan trọng nhất của Constantine với cương vị Hoàng đế là có cuộc trò chuyện trong lúc hấp hối về Thiên chúa giáo. Dù đế chế đã chuyển về Constantinople, vị giáo hoàng mới vẫn ở Rome, đúng như dự đoán của Thánh Peter – biểu tượng giáo hoàng đầu tiên. Thủ đô của đế chế phía tây là Ravenna. Áp lực từ các cuộc xâm lược và sự lãnh đạo kém cỏi dẫn đến mất Rome về tay người Visigoth vào năm 410 và diệt vong đế chế phía tây tại Ravenna vào năm 476. Phần còn lại của đế chế, tức đế chế phía Đông giờ thành đế chế Byzantine, gọi tên theo thủ đô. Như vậy, Ý sẽ không phải là một đất nước thống nhất cho tới thế kỉ 19.

Thống nhất bộ tộc man rợ[sửa]

Khi đế chế La Mã sụp đổ, các bộ tộc từ ngoài biên giới cũ tràn vào để lấp khoảng trống mà đế chế để lại. Người Visigoth dựng lên một vương quốc mới ở Iberia, trong khi đó người Vandal định cư ở Bắc Phi. Ở Anh, bộ tộc Germanic (Giéc-man) tràn vào và định cư ở vùng biển phía đông vào năm 5. Sau đó, những người này dựng lên vương quốc Anglo-Saxon đủ để lấp đầy khoảng trống từ La Mã. Ý thời kì hậu La Mã chịu sự thống trị của người Ostrogoth, mà vị vua gây ảnh hưởng nhất. Theoderic được tôn làm vua bởi Thượng viện, và ông có quan hệ tốt với Giáo hoàng, tuy nhiên vẫn giữ thủ đô ở Ravenna thuộc Bắc Ý. Nam Ý và Sicily vẫn thuộc Đế chế Byzantine cho tới vài thế kỉ tiếp theo.

Các tỉnh của Gaul, lúc trước là những tỉnh phát triển nhất của Đế chế La Mã phía tây bấy giờ chịu sự thống trị của người Frank. Xã hội người Gaul-Lã Mã dần dần đồng hóa với người Frank, lệ thuộc vào chiến binh của họ và xây dựng các mối quan hệ thông qua hôn nhân. Vương quốc Frank bao gồm hầu hết phía tây Đức và phía bắc Pháp ngày nay. Quyền lực của khu vực này được khẳng định bằng những chiến thắng trước người Visigoth và những bộ tộc man rợ khác. Ngày nay trong tiếng Đức có từ, “Frankreich”, nghĩa là Pháp, nhằm tỏ lòng kính trọng với vương quốc Frank khi xưa.

Triều đại Merovingian, theo tên của vị vua huyền thoại Merovech, là triều đại đầu tiên thống trị vương quốc Frank. Vị lãnh đạo tài ba nhất, Clovis chuyển sang đạo Thiên chúa vào năm 496 theo lời hứa khi chiến thắng một trận đánh. Sau cái chết của Clovis, ông chia vương quốc cho rất nhiều người con của ông, bắt đầu một thế kỉ tranh chấp đẫm máu và nội chiến. Một số người con, như Chilperic, phát điên, tuy nhiên không người nào chịu nhường đất hoặc đứng ra thống nhất vương quốc. Cuối cùng, tài sản của Merovingian suy giảm và dần xóa sổ.

Sự phát triển của một thế lực mới, triều đại Carolingian, là kết quả của việc bành trướng thế lực của các “Majordomo”, hay “trưởng của gia tộc”. Vua thời Merovingian cho phép majordomo quyền lực rộng lớn để kiểm soát vùng đất của gia tộc họ, nhưng một số sử dụng quyền hạn này để kiểm soát toàn bộ lãnh thổ. Pepin II là một trong những người đầu tiên bành trướng quyền lực đến mức ông nắm giữ hầu hết Gaul. Con trai ông, cũng là majordomo, Charles Martel, thắng trận Tours trước quân xâm lược Islamic, đánh đuổi ảnh hưởng của Hồi giáo ra khỏi hầu hết châu Âu. “Martel”, có nghĩa là “Búa”, cũng ảnh hưởng một phần đến sự lựa chọn vũ khí của ông.

Con trai Martel, Pepin III hay Pepin Lùn, sau khi yêu cầu hỗ trợ từ giáo hoàng, xử lý những “con rối” của thời Merovingian. Giáo hoàng cho phép Pepin lật đổ Merovingian để thắt chặt hỗ trợ các tiểu bang thuộc Giáo hội, và chống lại quân xâm lược Lombard. Pepin được gọi là ‘’rex Dei gratia’’, tức "Ân sủng của chúa", qua đó thiết lập chế độ quân chủ chuyên chế, dưới hình thức tuyên bố rằng ngôi vua là theo ý nguyện của Chúa trời trong Thiên chúa giáo.

(Cả Pepin II và Pepin III đều được biết là Pepin trẻ, vì Pepin I được gọi là Pepin Già. Tuy nhiên, Pepin III cũng được biết là Pepin Lùn, vì thế sách này sẽ sử dụng cách ấy.)

Lễ đăng quang của Charlemagne, từ Đại biên niên sử của Pháp (Grandes Chroniques de France) (1375 – 1379)

Pepin Lùn là người sáng lập triều đại Carolingian, triều đại phát triển bậc nhất vào giai đoạn của con trai ông, “Charles Đại đế” hay Charlemagne. Charlemagne cũng là vị vua đầu tiên với chức vị Hoàng đế La Mã Thần thánh – đúng phải là của người kế tục Caesars và người đứng ra bảo vệ Giáo hội. Thời Charlemagne, toàn bộ đế chế mở rộng thông qua xâm lược đến phần lớn Pháp và Đức ngày nay, tạo nên một sự phục hưng tầng lớp tri thức ở vương quốc Frank. Charlemagne cho xây rất nhiều tu viện, cũng như cắt cử một số tu sĩ để chép Kinh Thánh. Với phụ nữ, nghề dệt vải là một trong những cách để họ mở mang kiến thức mới, ngoài việc đồng áng và nuôi dạy con.

Sau khi Charlemagne mất, những người con của ông tuân theo tục lệ truyền thống của người Germanic và chia vương quốc của ông thành vương quốc của chính họ vào thế kỷ 9. "Đông và Tây Francia" xuất hiện, mà qua vài thế kỷ sau được biết đến là Pháp và Đức (Đức tiếp tục được biết là Đế quốc La Mã Thần thánh). Trong thời gian này, những vùng đã ổn định phía Tây Âu chịu sự tấn công của người Viking hay Normands (theo tiếng Pháp là người phương bắc) và những nhóm chiến binh biển độc lập từ Đan Mạch và Scandinavia, với các vị thần được biết trong truyền thuyết là Thor và Odin, nhóm người này cướp đoạt từ những thành thị và nhà thờ Thiên chúa giáo giàu có với mạng lưới trải rộng khắp Đại Tây Dương và châu Âu, từ Newfoundland tới Byzantium. Người Viking tiếp tục tấn công cho đến khi Na Uy và Thụy Điển miễn cưỡng chấp nhận Thiên chúa giáo vào thế kỉ 11 và 12. Anh, Ireland và người Normandy thuộc Pháp đều chứng kiến cuộc xâm lược của Viking trong giai đoạn này, với các tình tiết lịch sử quan trọng.

Ở Tây Ban Nha, một vương quốc tự trị của người Visigoth phát triển mạnh mẽ, với những xung đột liên tục, cho đến 711, khi Tây Ban Nha nhanh chóng bị hạ bệ bởi những người Hồi giáo. Một đế chế Hồi giáo lớn, được gọi là Califato de Córdoba, phát triển mạnh mẽ về văn hóa và bằng tay. Ở vùng núi phía bắc, các vương quốc Kitô hữu nhỏ, Galiza, Asturias, Navarra và Aragón, vẫn kiên trì. Biên giới với đế quốc Frankish, gọi là Marca Hispanica, bao gồm Barcelona từ 801 - là nguồn gốc của Công quốc Catalonia. Những người Hồi giáo bị mất vương quốc Tây Ban Nha cuối cùng của họ, Granada, vào năm 1492, khi vua của xứ Aragón, Fernando II, kết hôn với nữ hoàng của xứ Castilla, Isabella I, trong 1469. Liên kết hai triều đại, cháu trai của hai người là quốc vương Carlos V của Tây Ban Nha sau này, duy trì biên giới nội bộ và những dân tộc khác nhau, pháp luật và các tổ chức của mỗi một trong các vương quốc cổ xưa cho đến thế kỷ thứ 18. Navarra được sáp nhập năm 1515 và vẫn duy trì luật pháp và tài chính riêng của nó, như xứ Basque. Ý sẽ bắt đầu phân chia thành các vương quốc nhỏ cai trị bởi các hình thức khác nhau khác nhau của chính phủ. Tuy nhiên, các giáo hoàng vẫn có thể dùng đến sức mạnh lớn hơn hầu hết người dân châu Âu.

Đông Âu, dân cư thưa thớt và xa hơn từ biên giới La Mã, trải qua nhiều cuộc xâm lược và di cư trong thời gian thế kỷ thứ 6 đến thế kỷ thứ 10. Từ quê hương của họ ở miền nam nước Nga, những người Slav mở rộng về phía tây trong bối cảnh của cuộc di cư Đức, định cư tại khu vực bán đảo Balkan, Bohemia, Ba Lan và Đông Đức và họ chia rẽ lòng trung thành của nhau đối với những người thừa kế đế quốc La Mã. Người Ba Lan, Séc, Croatia đã thông qua Cơ đốc giáo La-tinh, trong khi các vị vua Bulgaria, Serbia và Nga chấp nhận nghi thức Byzantine Hy Lạp. Một nửa dân số người Bosnia, một bộ lạc nhỏ của Nam Slav, ở vùng cao nguyên của Dinaric của dãy Alps, đã không như thế, thay vào đó họ đã thông qua những nghi thức của mình và trong thế kỷ thứ 10 họ thành lập Giáo Hội Bosnia của riêng họ, thường bị nhầm lẫn với đạo Bogomil (một nhánh giáo Ngộ Đạo của Kitô hữu) kể từ khi nhà cầm quyền Bosnia cho thấy sự khoan dung vô cùng về phía họ và thậm chí bảo vệ những người này, đôi khi với những hậu quả bi thảm khi họ chọn con đường riêng của mình về cuộc sống và nhất định sẽ là những hậu quả lịch sử ảnh hưởng đến toàn bộ khu vực bán đảo Balkan. Magyar, một bộ lạc của dân tộc các chiến binh anh dũng giống như người Hung, bước vào châu Âu từ những thảo nguyên nước Nga trong thế kỷ thứ 9, đã chiến đấu một loạt các cuộc chiến tranh với các hoàng đế nước Đức, người đã kế vị ngai vàng của Hoàng đế Charlemagne của Đức, và cuối cùng thành lập triều đại hoàng gia của họ như một quốc vương Kitô hữu Latinh (vua của họ, Stephen, đạt được phong thánh). Các dân tộc ở khu vực bờ biển Baltic, như Letts và Phổ, vẫn chủ yếu bị ảnh hưởng bởi sự mở rộng của Kitô Giáo trong thời Trung Cổ sớm. Ở Nga, một vương quốc ở Kiev đã được hình thành, kết hợp cả hai dân tộc Slavơ và các dân tộc it người vùng bán đảo Scandinavia.

The Battle of Hastings. The Bayeux Tapestry depicts the Norman conquest of England (c.1070)

Anh được chia thành các vương quốc khác nhau sau khi cuộc xâm lược của người Anglo-Saxon-Jutes, đến thời kỳ của cuộc xâm lược của Đan Mạch. Vua Alfred thống nhất nhiều nước Anh thành một vương quốc vào cuối thế kỷ thứ 9. Vào ngày 10 tháng 10/1066 vua William Con Hoang, sau được gọi là William Nhà Chinh Phạt, bắt đầu một cuộc xâm lăng vùng Norman của Anh với Trận Hastings. Người Pháp của nước Anh trong giai đoạn này được thể hiện bằng các thuật ngữ chính thức trong tiếng Anh, mà bắt nguồn từ tiếng Pháp..

Năm 1215, Các bá tước của nước Anh buộc vua John ký Magna Carta (tức là Đại Hiến Chương về những quyền tự do). Vua John đặc biệt chuyên chế. Ông đã lạm dụng chư hầu của mình, người cháu trai của ông đã giết chết chính con trai của ông Arthur, và mang lại cơn thịnh nộ của Giáo Hội trên đất nước trong các hình thức của một Giáo hoàng ngăn chận (không có dịch vụ nhà thờ đã được thực hiện: không có kết hôn, đám tang, hoặc khối lượng). Bá tước của ông cuối cùng đoàn kết chống lại ông. Trong khi ông đang đi săn, họ bao quanh ông cho anh ta những lựa chọn để ký Magna Carta hoặc phải chết. Magna Carta được ghi nhận trong pháp luật một số quyền lợi mà các ông trùm đã được hưởng. Cung điện hoàng gia tuyệt đối đã đưa ra cách để cai trị bởi sự đồng thuận và là nền tảng cho Quốc hội đã được đặt.


Lịch sử châu Âu: 00 · 01 · 02 · 03 · 04 · 05 · 06 · 07 · 08 · 09 · 10 · 11 · 12 · 13 · 14