Đế quốc Đại Minh/Chính quyền/Nhân sự hành chính

Tủ sách mở Wikibooks

Sĩ đại phu[sửa]

Khung cảnh thí sinh tham gia khoa cử đang xem bảng vàng, tranh của Cừu Anh (1494–1552).

Từ năm 1373 đến năm 1384, Minh Thái Tổ xây dựng bộ máy quan liêu với các quan chức chỉ được tuyển dụng thông qua hình thức tiến cử. Mãi cho tới sau này, các sĩ đại phu với nhiều cấp bậc mới được tuyển chọn thông qua một hệ thống kỳ thi nghiêm ngặt, được triển khai lần đầu vào thời nhà Tùy (581–618), gọi là khoa cử. Về mặt lý thuyết, khoa cử cho phép bất kỳ ai cũng có thể gia nhập hàng ngũ quan chức triều đình (dù sau này giới thương nhân bị phản đối). Nhưng trên thực tế, thời gian và kinh phí cần thiết để hỗ trợ việc học tập, chuẩn bị cho các kỳ thi, đã giới hạn đối tượng tham gia khoa cử chỉ còn là những người thuộc tầng lớp chủ đất. Tuy nhiên, triều đình cũng đưa ra hạn ngạch tuyển dụng nhân sự phù hợp theo từng tỉnh thành. Đây là một nỗ lực nhằm hạn chế sự độc chiếm quyền lực từ giới quý tộc sở hữu đất đai ở những vùng thịnh vượng nhất, nơi có nền giáo dục vượt trội. Sự khuếch trương của ngành công nghiệp in ấn từ thời nhà Tống, làm gia tăng khả năng phổ cập kiến thức và số lượng thí sinh tiềm năng trên khắp các tỉnh thành. Trẻ tiểu học được tiếp xúc với bảng cửu chương và sách dạy chữ vỡ lòng. Nho sinh trưởng thành thì có trong tay Tứ thư, Ngũ kinh và những bài làm mẫu, được in hàng loạt với giá thành rẻ.

Cũng như thời trước, trọng tâm của các kỳ thi vẫn là Nho học kinh điển, phần lớn tài liệu kiểm tra tập trung vào bộ Tứ thư do Chu Hi phác thảo vào thế kỷ 12. Kể từ năm 1487, dường như các kỳ thi đã trở nên khó khăn hơn với việc thí sinh phải hoàn thành bài bát cổ văn, một kiểu bài luận không theo trào lưu văn học. Độ khó của kỳ thi tăng tiến theo từng cấp, từ địa phương tới trung ương. Với việc vượt qua mỗi kỳ thi, thí sinh sẽ nhận được các học vị tương ứng. Chức quan được phân làm chín bậc phẩm, mỗi bậc phẩm lại chia thành hai cấp–chínhtòng–với mức lương khác nhau (tính bằng thạch gạo) tùy theo phẩm hàm. Thí sinh vượt qua kỳ thi hội hoặc kỳ thi hương chỉ được bổ nhiệm chức quan phẩm hàm thấp. Trong khi đó, thí sinh vượt qua kỳ thi đình được phong học vị tiến sĩ và bổ nhiệm chức quan phẩm hàm cao. Qua 276 năm cai trị với 90 kỳ thi đình, nhà Minh có 24.874 tiến sĩ. Ebrey khẳng định rằng “chỉ có 2 nghìn đến 4 nghìn tiến sĩ đương nhiệm cùng lúc và cứ 1 vạn người đàn ông trưởng thành thì mới có một người là tiến sĩ.” Để dễ hình dung, vào thế kỷ 16, có tới 10 vạn người là sinh viên (cấp học vị thấp nhất).

Mỗi viên quan có thời gian tại chức tối đa là chín năm, nhưng cứ ba năm thì họ lại được cấp trên xếp loại thành tích một lần. Viên quan được thăng chức nếu nhận đánh giá tích cực, bị giáng chức nếu nhận đánh giá tiêu cực và vẫn tại chức nếu nhận đánh giá trung bình. Trong vài trường hợp nghiêm trọng, viên quan có thể bị cách chức hoặc chịu sự trừng phạt. Chỉ có quan tứ phẩm trở lên ở kinh thành là được miễn ghi chép đánh giá, mặc dù họ phải tự nguyện thú nhận những lỗi lầm của bản thân. Hơn 4 nghìn trợ giáo ở các trường cấp huyện và châu, được xếp loại thành tích chín năm một lần. Chiêm sự phủ là nơi chịu trách nhiệm đào tạo người thừa kế ngai vàng, được đứng đầu bởi một viên quan chính tam phẩm gọi là chiêm sự.

Giới sử học tranh luận về việc liệu hệ thống khoa cử đã thúc đẩy hay kìm hãm tính linh hoạt của xã hội theo chiều hướng đi lên. Một mặt, các kỳ thi được phân loại mà không cần quan tâm đến gia cảnh của thí sinh, trên lý thuyết nó dành cho tất cả mọi người. Mặt khác, những thí sinh đỗ đạt là những người có nhiều năm được kèm cặp rất tốn kém, phức tạp, theo cái cách mà các gia tộc giàu có cấp dưỡng cho đứa con trai tài năng của họ. Trên thực tế, vì thiếu giáo dục nên 90% dân số không thể giành được vị trí cao trong các kỳ thi, nhưng 10% còn lại thì có cơ hội làm điều đó như nhau. Để thành công, những chàng trai trẻ phải được đào tạo chuyên sâu, tốn kém về cổ văn Trung Quốc, văn ngôn Quan thoại, nghệ thuật thư pháp, đồng thời phải nắm vững những yêu cầu phức tạp của bát cổ văn. Không chỉ thống trị hệ thống cai trị, tầng lớp quý tộc truyền thống còn học được rằng tuân theo chủ nghĩa bảo thủ và chống lại những ý tưởng mới là con đường dẫn đến thành công. Trong nhiều thế kỷ, các nhà phê bình đã chỉ ra những vấn đề kể trên, nhưng hệ thống khoa cử vẫn ngày càng trở nên trừu tượng và ít phù hợp hơn với nhu cầu của đất nước. Nhiều học giả nhất trí rằng bát cổ văn là nguyên nhân chính dẫn đến “sự trì trệ về văn hóa và lạc hậu về kinh tế ở Trung Quốc.” Tuy nhiên, Benjamin Ellman lại cho là bát cổ văn vẫn mang lại một số điểm tích cực, vì hình thức bài luận này có khả năng bồi dưỡng “tư duy trừu tượng, khả năng hùng biện, vần điệu thơ ca” và cấu trúc phức tạp của nó không khuyến khích thí sinh làm một bài tường thuật lan man, lạc đề.

Tư lại[sửa]

Minh Tuyên Tông chơi chuỷ hoàn, một trò chơi tương tự đánh gôn, với các hoạn quan của mình, tranh của một họa sĩ triều đình ẩn danh thời Tuyên Đức (1425–1435).

Các sĩ đại phu được tuyển dụng thông qua khoa cử, đóng vai trò như những quan chức điều hành của một nhóm lớn hơn, gồm nhiều nhân viên không có phẩm hàm, gọi là tư lại. Cứ một quan chức thì có bốn tư lại; Charles Hucker ước tính rằng có thể có đến 10 vạn tư lại trên khắp đất nước. Tư lại thực hiện các nhiệm vụ văn thư và kỹ thuật cho quan chức chính phủ. Tuy nhiên, không nên nhầm lẫn họ với đao phủ, bưu tá, hay cửu vạn thấp hèn. Tư lại cũng được đánh giá thành tích định kỳ như quan chức. Sau chín năm công tác, họ có thể được nhận một phẩm hàm cấp thấp. Một lợi thế của tư lại so với quan chức đó là quan chức thì phải luân chuyển định kỳ và nhận những chức vụ khu vực khác nhau, do đó, họ phải phụ thuộc vào sự phục vụ và khả năng phối hợp tốt của tư lại địa phương.

Hoạn quan, vương gia và tướng lĩnh[sửa]

Một chi tiết trong bức tranh Minh nhân xuất cảnh đồ, kiệu của Minh Thần Tông được voi kéo (toàn cảnh bức tranh ở đây)

Nhà Minh là triều đại mà hoạn quan có quyền lực lớn chưa từng có trong hoạt động công vụ. Đông xưởng, sau này là Tây xưởng, là một trong những phương tiện kiểm soát hiệu quả nhất mà hoàng triều sở hữu. Hai cơ quan mật vụ này được giám sát bởi Ty lễ giám, đồng nghĩa với việc chúng thường là cơ quan toàn trị. Hoạn quan cũng được phân phẩm bậc như quan chức, nhưng chỉ có bốn bậc thay vì chín bậc.

Hậu duệ Minh Thái Tổ được phong làm vương gia, được trao binh quyền (thường là trên danh nghĩa), nhận bổng lộc hàng năm và sở hữu những vùng đất đai rộng lớn. Dù đều mang tước vương, nhưng vương gia thời nhà Minh không giống như vương gia thời nhà Hán hay nhà Tấn, đất đai của họ không phải là đất phong kiến. Vương gia thời nhà Minh không phục vụ bất kỳ chức năng hành chính nào, họ cũng chỉ được tham gia hoạt động quân sự dưới thời trị vì của hai vị hoàng đế đầu tiên. Dù bảo vệ quyền lợi của bản thân là một phần nguyên nhân khiến Yên vương Chu Đệ tạo phản, nhưng khi đã lên ngôi, ông ta lại tiếp tục thi hành chính sách của người cháu, tước binh quyền trong tay họ hàng và di dời thái ấp của họ ra khỏi vùng biên giới quân sự phía bắc. Tuy không phục vụ bất kỳ chức năng hành chính nào, nhưng vương gia, phò mã và hoàng thân, vẫn làm việc tại Tông Nhân phủ, nơi giám sát gia phả hoàng gia.  

Giống như sĩ đại phu, tướng lĩnh quân đội cũng được xếp hạng theo một hệ thống phân cấp và được đánh giá thành tích 5 năm một lần (thay vì ba năm như với quan chức). Tuy nhiên, sĩ quan quân đội có ít uy tín hơn quan chức. Điều này đến từ việc vị trí mà họ đang có là cha truyền con nối (không dựa trên công trạng) và các giá trị Nho giáo thì bức chế những người chọn nghề chiến đấu (võ) thay vì theo đuổi nghiệp tri thức (văn). Mặc dù bị đánh giá thấp hơn, sĩ quan không bị loại khỏi các kỳ thi dân sự, sau năm 1478, quân đội thậm chí còn tổ chức kỳ thi riêng để kiếm tra kỹ năng quân sự. Ngoài việc tiếp quản cơ cấu quan liêu đã thiết lập từ thời nhà Nguyên, hoàng đế nhà Minh còn đặt ra một chức vụ có vai trò như một tổng đốc lưu động. Vào nửa đầu triều đại, những người đàn ông thuộc dòng dõi quý tộc đã thống trị các chức vụ cao trong bộ máy quân đội; xu hướng này đảo chiều khi họ bị thay thế bởi những người có địa vị khiêm tốn hơn trong nửa sau triều đại.