Hệ sinh thái rừng tự nhiên chủ yếu ở Việt Nam/Rừng kín nửa rụng lá ẩm nhiệt đới

Tủ sách mở Wikibooks


Phân bố[sửa]

  • Hệ sinh thái rừng này phân bố ở Quảng Ninh, Bắc Giang, Bắc Kạn, Tuyên Quang, Phú Thọ, Yên Bái, Sơn La, Lai Châu, Thanh Hoá, Nghệ An, Tây Nguyên, miền đông Nam Bộ...
  • Phân bố theo độ cao so với mực nước biển:
Ở miền Bắc: dưới 700 m
Ở miền Nam: dưới 1.000 m

Điều kiện sinh thái[sửa]

Khí hậu[sửa]

  • Nhiệt độ không khí trung bình hàng năm 20 - 25oC
  • Nhiệt độ không khí trung bình tháng lạnh nhất 15 - 20oC
  • Lượng mưa trung bình hàng năm 1.200 - 2.500 m
  • Chỉ số khô hạn (1-3) - (0-1) - (0)
  • Mùa hạn kéo dài từ 1 - 3 tháng với lượng mưa dưới 50 mm và một tháng có lượng mưa dưới 25 mm
  • Độ ẩm trung bình thấp nhất trên 85%

Đất[sửa]

  • Đá mẹ: phiến thạch, sa thạch, sa diệp thạch, badan, phù sa cổ, kể cả đất đá vôi hung đỏ, đất nâu đen...
  • Đất đỏ vàng Feralit, tầng đất dày

Cấu trúc rừng[sửa]

Cấu trúc tầng thứ[sửa]

Cấu trúc tầng thứ gồm 3 tầng cây gỗ (A1 , A2 , A3). Điển hình là hai loài cây rụng lá: Săng Lẻ (Lagerstroemia tomentosa ) và Sau Sau (Liquidambar formosana). Ngoài ra còn có các loài cây thuộc họ Dipterocarpaceae, Meliaceae, Leguminosae, Datiscaceae, Moraceae, Anacardiaceae, Combretaceae, Lauraceae, Burseraceae, Sapindaceae... Chiều cao quần thể đạt đến 40 m. Nhiều loài cây có bạnh vè.

Tầng dưới tán và tầng cây bụi thưa. Tầng thảm tươi rậm rạp có các loài quyết (Pteridophyta) và cây họ Dừa (Palmae).

Cấu trúc tổ thành[sửa]

Các kiểu phụ miền
  • Kiểu phụ miền thực vật thân thuộc với khu hệ Malaysia-Indonesia và khu hệ Ấn Độ-Myanmar.
Kiểu phụ này phát hiện ở Mường Xén, Con Cuông (Nghệ An), điển hình là cây Săng lẻ (Lagerstroemia tomentosa) mọc hỗn giao với Lim xanh (Erythrophoeum fordii), Lim xẹt (Peltophorum tonkinensis), Sến mật (Madhuca pasquieri).
Đặc trưng cơ bản của hệ sinh thái này là số cá thể rụng lá phải có từ 25 - 75% so với tổng số cá thể trong quần thể. Ngoài hai loài cây rụng lá điển hình là Săng lẻ (Lagerstroemia tomentosa) ở tây bắc Nghệ An và Sau sau (Liquidamba formosana) ở Biển Động, Bắc Giang. Ngoài ra còn có nhiều loài cây rụng lá khác như các loài dẻ (Quercus acutissima, Quercus serrata, Quercus griffithii), Bồ đề (Styrax tonkinensis), Xoan ta (Melia azedarach), Lim xẹt ( Peltophorum tonkinensis) Có quần thể tổ thành loài cây rụng lá gần như thuần loài như Săng lẻ (Lagerstroemia tomentosa) ở Con Cuông (Nghệ An), Sau sau (Liquidamba formosana) ở Hữu Lũng (Lạng Sơn) và Biển Động (Bắc Giang). Khu hệ thực vật Việt Nam có nhiều loài cây rụng lá thuộc các họ Dipterocarpaceae, Leguminosae, Combretaceae, Datiscaceae, Sterculiaceae, Anacardiaceae, Meliaceae, Sapindaceae, Bignoniaceae, Ulmaceae, Moraceae, Verbenaceae. Điều dễ nhận biết là một số loài cây rụng lá tham gia vào quá trình diễn thế phục hồi rừng sau nương rãy như Bồ đề (Stryrax tonkinensis) ở Phú Thọ, Tuyên Quang và Sau sau (Liquidamba formosana) ở Hữu Lũng (Lạng Sơn) và Biển Động (Bắc Giang).
Trong hệ sinh thái rừng này, những loài cây rụng lá còn mọc hỗn giao với các loài cây thường xanh khác thuộc các họ Lauraceae, Burseraceae, Meliaceae, Moraceae, Sapindaceae.
  • Kiểu phụ miền thực vật thân thuộc với khu hệ bản địa Bắc Việt Nam - Nam Trung Hoa và khu hệ di cư Ấn Độ - Myanmar
Kiểu phụ miền này có các loài cây rụng lá thuộc các họ Meliaceae, Sapindaceae, Leguminosae, Anacardiaceae, Burseraceae, Verbenaceae Những loài này rụng lá dần dần và kéo dài trong suốt mùa khô hạn. Điều đáng chú ý là nguyên nhân rụng lá của một số loài cây trong hệ sinh thái rừng này không chỉ là do khí hậu. Khi rừng bị khai thác nhiều lần hoặc rừng phục hồi rên đất đang thoái hoá có tầng đá ong ngăn cách với mực nước ngầm thì hạn đất đã làm cho một số loài cây có phản ứng rụng lá trong mùa khô hạn.
Các kiểu phụ thổ nhưỡng
  • Kiểu phụ thổ nhưỡng kiệt nước trên núi đá vôi: Hệ sinh thái rừng trên núi đá vôi là một ví dụ điển hình.
  • Kiểu phụ thổ nhưỡng úng nước mặn: Hệ sinh thái rừng ngập mặn là một ví dụ điển hình.

Tái sinh và diễn thế rừng[sửa]

Diễn thế thứ sinh của hệ sinh thái này hình thành dưới tác động của con người như phục hồi rừng nương rãy, sau khai thác và trồng lại rừng mới. Các ưu hợp trình bày dưới đây là kiểu phụ thứ sinh nhân tác.

Tác động tiêu cực của con người[sửa]

Sau nương rẫy
  • Ưu hợp Mỡ + Bồ đề + Xoan ta
Ưu hợp này hình thành sau nương rãy. Rừng phục hồi ban đầu là tái sinh của loài cây tiên phong ưa sáng, điển hình nhất là loài cây bồ đề rụng lá. Có nơi hình thành nên rừng bồ đề (Styrax tonkinensis) tự nhiên gần như thuần loài như ở Phú Thọ, Tuyên Quang, Yên Bái Các dân tộc miền núi ở tỉnh Hoà Bình có kinh nghiệm gieo hạt Xoan ta (Melia azederach) trên nương rãy, sau đó đốt nương để kích thích hạt xoan nẩy mầm. Ngoài ra còn có Mỡ (Manglietia glauca) cũng tham gia vào tổ thành rừng phục hồi sau nương rãy và là loài cây tiên phong định vị, có khả năng tồn tại lâu dài trong đời sống của quần thể.
  • Ưu hợp nứa (Shizostachyum funghomii)
Ưu hợp này hình thành trên nương rãy lâu năm, đất đã bị thoái hoá. Tuỳ theo mức độ đất thoái hoá mà quần thể nứa phục hồi có đường kính cây khác nhau. Đất càng xấu thì đường kính nứa càng nhỏ và trở thành nứa tép. Trong quá trình phục hồi rừng có thể có một số loài cây tái sinh chịu hạn hơn xuất hiện như giang (Maclurochloa), sặt (Arundinaria sp.), trúc (Phyllostachys sp.), vầu (Acidosasa sp.) Do đặc thù tái sinh thân ngầm nên quần thể nứa ổn định trong một thời gian tương đối dài. Khi nào nứa bị khuy thì sẽ xuất hiện diễn thế mới tuỳ theo điều kiện cụ thể của từng địa phương.
  • Ưu hợp Hu đay + Bồ đề (Trema angustifolia + Styrax tonkinensis)
Ưu hợp này hình thành sau nương rãy, phân bố ở vùng khí hậu ẩm, có nơi phục hồi thành rừng Bồ đề (Styrax tonkinensis) gần như thuần loài. Ban đầu những loài cây tiên phong ưa sáng như Hu đay (Trema angustifolia), Ba bét (Mallotus apelta), Hu nâu (Mallotus cochinchinensis) xuất hiện cùng với loài cây rụng lá điển hình là loài bồ đề. Bồ đề là loài cây ưa sáng nhưng có đời sống dài hơn các loài hu, ở nhiều địa phương đã hình thành nên những quần thể rừng bồ đề phục hồi gần như thuần loài đều tuổi. Quần thể rừng tiên phong này chỉ có tính chất tạm thời vì cấu trúc rừng thuần loài, đều tuổi, một tầng, rụng lá, tán thưa không thích hợp với điều kiện nhiệt đới mưa nhiều, đất dốc. Lượng đất xói mòn trong quần thể này cao nên không thể ổn định lâu dài.
Xu hướng diễn thế của quần thể sẽ diễn ra theo hai chiều hướng sau đây:
Nếu bảo vệ rừng tốt thì dưới tán rừng sẽ xuất hiện tái sinh của những loài cây chịu bóng thuộc các họ Caesalpinaceae, Lauraceae, Fagaceae, Meliaceae v.v…Thế hệ cây tái sinh này sẽ thay thế rừng bồ đề và có khả năng hồi nguyên lại trạng thái rừng ban đầu tổ thành bởi những loài cây có giá trị kinh tế và phòng hộ. Đây là quá trình diễn thế tiến hoá, cấu trúc rừng ngày càng phức tạp cả về tổ thành loài cây và tầng thứ.
Nếu rừng phục hồi không được bảo vệ thì sẽ tiếp tục quá trình diễn thế thoái hoá, các loài tre nứa xâm nhập vào thành phần quần thể, chiếm ưu thế hoặc gần như thuần loài ổn định hoặc diễn thế thành trảng cây bụi, trảng cỏ thứ sinh như chít (Thysanolaena maxima), chè vè (Miscanthus sinensis).
Những ưu hợp thuộc loại này cần được coi là đối tượng khoanh nuôi rừng, nếu không đủ tái sinh của những loài cây mục đích thì cần trồng dặm bổ sung thêm những loài cây bản địa có giá trị.
Sau khai thác rừng
  • Ưu hợp Lim xanh + Lim xẹt (Erythrophoeum fordii +Peltophorum tonkinensis)
Ưu hợp này hình thành sau khai thác chọn, phân bố ở Biển Động, An Châu (Bắc Giang), Như Xuân (Thanh Hoá), Quỳ Châu (Nghệ An)... Nguồn gốc ban đầu của ưu hợp này là rừng hỗn loài lá rộng có lim xanh tham gia vào tổ thành quần thể. Ngoài ra còn có các loài cây khác như trám (Canarium copalierum), Ràng ràng mít (Ormosia balansae), Lim xẹt (Peltophorum tonkinensis), các loại dẻ (Lithocarpus sp, Castanopsis sp), các loài re (Cinnamomum, Phoebe), Mí (Lysidice rhodostegia), Ngát (Gironniera subaequalis), Bứa (Garcinia bonii) Nếu được bảo vệ và nuôi dưỡng lâu dài, ưu hợp này có khả năng phục hồi lại trạng thái rừng ban đầu. Nếu tiếp tục bị khai thác, đất bị thoái hoá có kết vón đá ong sẽ làm tăng tỉ lệ loài cây rụng lá trong quần thể.
  • Ưu hợp Sau sau + Lim xanh (Liquidamba formosana + Erythrophoeum fordii)
Ưu hợp này được phát hiện ở Hữu Lũng (Lạng Sơn), Biển Động, An Châu (Bắc Giang) Có thể coi đây là một trong những vùng trung tâm phân bố của Lim xanh (Erythrophoeum fordii Olive) ở Việt Nam. Trong những năm 60 của thế kỉ 20, nơi đây đã từng có những cánh rừng Lim xanh tự nhiên gần như thuần loài, đường kính to đến 1 - 1,2 m (Phùng Ngọc Lan, 1962). Rất tiếc là con người đã xoá đi những "di sản thiên nhiên" quý báu của thảm thực vật cổ xưa. Nguồn gốc của ưu hợp này là rừng hỗn giao lá rộng thường xanh. Qua khai thác nhiều lần biến thành trảng cây bụi, trảng cỏ guột. Tại đây, bắt đầu xuất hiện những loài cây có khả năng chống lửa cao như Hoắc quang (Wendlandia paniculata), Thầu tấu (Aporosa sp), sau đó là tái sinh Sau sau (Liquidamba formosana) và hình thành nên quần thể rừng sau sau thuần loài, một loài cây rụng lá điển hình ở vùng Đông Bắc Việt Nam. Sau sau là loài cây ưa sáng, tán thưa, độ tàn che của rừng khoảng 0,4 - 0,5 rất thích hợp cho tái sinh của loài lim xanh. Một thế hệ cây Lim xanh mới được hình thành dưới tán rừng sau sau và tham gia vào tổ thành của rừng sau này. Ngoài ra, còn có các loài cây hỗn giao lá rộng khác như Kháo (Phoebe sp.), Re (Cinnamomum sp.), Dẻ gai (Castanopsis sp.), Dẻ đá (Lithocarpus sp.).
Những ưu hợp hình thành sau khai thác chọn cần phải được "đóng cửa rừng", nuôi dưỡng để rừng phục hồi lại trạng thái rừng ban đầu.

Tác động tích cực của con người[sửa]

Con người tác động đến kiểu hệ sinh thái rừng này thông qua trồng rừng mới như mỡ, bồ đề, bạch đàn, thông... Ngoài ra còn tiến hành tra dặm làm giàu rừng bằng những loài cây bản địa có giá trị kinh tế

Ý nghĩa[sửa]

Hệ sinh thái rừng này phân bố tương đối rộng trên lãnh thổ Việt Nam và nằm trong vành đai núi thấp thuộc đối tượng tác động của ngành lâm nghiệp. Trữ lượng rừng nguyên sinh có thể đạt đến 300-400 m3/ha. Tổ thành rừng có nhiều loài cây rừng nhiệt đới có giá trị trong đó có nhiều loài cây bản địa đặc hữu của Việt Nam, có nhiều loại thực vật, động vật rừng quý hiếm và lâm sản nhiệt đới ngoài gỗ lớn như dược liệu quý, nhiều loài cây cho tinh dầu, nhựa, chất béo, ta nanh... Đây cũng là đối tượng rừng khai thác gỗ xây dựng và cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế biến lâm sản, đặc biệt là nguyên liệu cho công nghiệp giấy sợi. Tuy nhiên, trải qua khai thác nhiều lần, phần lớn rừng hiện còn là rừng thứ sinh nghèo nên cần phải được xúc tiến tái sinh, nuôi dưỡng phục hồi rừng.

Hệ sinh thái rừng này phân bố chủ yếu ở miền núi và trung du. Sự tồn tại của hệ sinh thái rừng này giữ vai trò cực kì quan trọng trong việc phòng hộ đầu nguồn, nuôi dưỡng nguồn nước, bảo vệ đất, chống xói mòn, hạn chế lũ lụt cho cả vùng đồng bằng, đô thị và vùng ven biển.

Hệ sinh thái rừng này cũng có tính đa dạng sinh học cao. Có nhiều thực vật và động vật rừng quý hiếm có nguy cơ tuyệt chủng. Nhiều vấn đề khoa học như quy luật tái sinh, diễn thế rừng, quy luật sinh trưởng của cây rừng và rừng nhiệt đới v.v…đang chờ đợi các nhà khoa học nghiên cứu.