Đế quốc Đại Minh/Văn hóa, xã hội/Văn học và nghệ thuật

Tủ sách mở Wikibooks
Lư sơn cao của Thẩm Chu, 1467.
Mặt sau được trang trí của đàn tỳ bà từ thời nhà Minh.

Thời nhà Minh, văn học, hội họa, thơ ca, âm nhạc và kinh kịch Trung Quốc thuộc nhiều thể loại, phát triển rất mạnh, đặc biệt là ở vùng lưu vực sông Dương Tử trù phú. Mặc dù truyện ngắn đã phổ biến từ tận thời nhà Đường (618–907), và tác phẩm của những tác giả đương thời như Từ Quang Khải, Từ Hà Khách, Tống Ứng Tinh, thường mang tính học thuật, bách khoa, nhưng tiểu thuyết bạch thoại mới là thể loại văn học phát triển nhất. Trong khi tầng lớp sĩ tộc được giáo dục đủ để thông hiểu cổ văn, những người có trình độ học vấn thấp hơn – phụ nữ gia giáo, thương gia và nhân viên bán hàng – trở thành đối tượng khán giả tiềm năng của những thể loại văn học, nghệ thuật biểu diễn sử dụng bạch thoại. Vài tác phẩm nằm trong Tứ đại danh tác – như Thủy hửTây du ký – được các văn nhân biên tập, phát triển thành hình trong thời kỳ này. Dù dựa vào Thủy hử ra đời trước, Kim Bình Mai xuất bản năm 1610, đã khởi đầu xu hướng sáng tác độc lập, chú trọng vào tâm lý nhân vật. Cuối thời nhà Minh, Phùng Mộng Long và Lăng Mông Sơ cách tân thể loại truyện ngắn bạch thoại. Kịch bản sân khấu đã giàu trí tưởng tượng hơn. Vở kịch nối tiếng nhất, Mẫu đơn đình, được viết bởi Thang Hiển Tổ (1550–1616), công diễn lần đầu tại Đằng Vương các vào năm 1598.

Tản văn và du ký cũng là những điểm đáng chú ý khi đề cập tới văn học thời nhà Minh. Ký giả Từ Hà Khách (1587–1641) xuất bản cuốn Từ Hà Khách du ký chứa 404.000 Hán tự, có đầy đủ thông tin từ địa lý địa phương cho tới khoáng vật học. Hoạt động xuất bản báo tư nhân ở Bắc Kinh được nhắc đến lần đầu vào năm 1582. Đến năm 1638, tờ Kinh báo sử dụng kỹ thuật in sắp chữ thay thế cho in khắc gỗ. Cuối thời nhà Minh, một lĩnh vực văn học mới bàn về đạo đức kinh doanh được phát triển, dành cho độc giả là giới thương gia.

Một bài thơ ở thế kỷ 17.

Trái với Từ Hà Khách, người tập trung vào khía cạnh học thuật trong các tác phẩm du ký của mình, Viên Hoành Đạo (1568–1610), một quan chức kiêm nhà thơ, lại dùng bút ký để bày tỏ niềm khát khao với chủ nghĩa cá nhân, sự tự chủ và nỗi thất vọng với hình thức chính trị triều đình Nho giáo. Viên Hoành Đạo muốn giải phóng bản thân khỏi những thỏa hiệp đạo đức vốn không thể tách rời khỏi sự nghiệp của một sĩ đại phu. Tư tưởng “phản sĩ phu” trong các tác phẩm du ký của Viên Hoành Đạo thực chất là sự tiếp nối truyền thống từ Tô Đông Pha (1037–1101) – một quan chức kiêm nhà thơ thời nhà Tống. Viên Hoành Đạo cùng với hai người anh em, Viên Tông Đạo và Viên Trung Đạo, là ba nhà sáng lập trường phái văn chương Công An. Trường phái thơ và văn xuôi đề cao tính cá nhân này bị giới Nho sĩ chỉ trích vì sự liên kết của nó với chủ nghĩa trữ tình gợi cảm mãnh liệt, điều được thể hiện rõ ràng trong các tiểu thuyết bạch thoại thời nhà Minh như Kim Bình Mai. Tuy nhiên, ngay cả giới thượng lưu và sĩ đại phu cũng bị ảnh hưởng bởi trào lưu văn học lãng mạn mới, họ tìm bạn tri kỷ để tái hiện lại những câu chuyện tình hào hùng mà các cuộc hôn nhân sắp đặt thường không thể cung cấp hay đáp ứng được.

Một chiếc bình sứ thời Minh Thế Tông (1521-1567}}).

Một số họa sĩ nổi tiếng thời nhà Minh như Nghê Toản, Đổng Kỳ Xương, và nhóm Minh Tứ gia gồm Thẩm Chu, Đường Dần, Văn Chưng Minh, Cừu Anh, đã áp dụng kỹ thuật, phong cách, độ phức tạp trong hội họa của những người tiền nhiệm thời Tống, Nguyên, nhưng tự bổ sung thêm kỹ thuật và phong cách riêng. Các danh họa thời nhà Minh có thể kiếm sống dễ dàng bằng nghề vẽ tranh, vì họ định giá tranh của mình rất cao và cộng đồng văn hóa cao cấp thì luôn có nhu cầu sưu tập tác phẩm nghệ thuật giá trị. Từng có một vị khách trả cho Cừu Anh 100 lượng bạc để vẽ một bức trường quyển cho mẹ mình nhân dịp mừng thọ 80 tuổi. Các danh họa nổi tiếng thường có đông đảo môn sinh theo học, một số chỉ là họa sĩ nghiệp dư, chọn vẽ tranh làm nghề tay trái, số khác thì là họa sĩ chuyên nghiệp.

Gốm sứ thời nhà Minh rất nổi tiếng. Những lò nung hoàng gia ở Cảnh Đức, Giang Tây là trung tâm chế tác nhiều kiểu đồ sứ khác nhau, nổi danh nhất là sứ thanh hoa. Cuối thế kỷ 16, các nhà xưởng ở Đức Hóa, Phúc Kiến đã bắt đầu xuất khẩu đồ sứ Trung Quốc, phục vụ nhu cầu thị hiếu của người châu Âu. Nhiều nghệ nhân gốm sứ cũng được biết đến rộng rãi, chẳng hạn như Hà Triêu Tông, trứ danh với phong cách điêu khắc sứ trắng vào đầu thế kỷ 17. Trong cuốn The Ceramic Trade in Asia, Hà Thúy My ước tính rằng khoảng 16% lượng gốm sứ xuất khẩu của Trung Quốc cuối thời nhà Minh đến châu Âu, phần còn lại đến Nhật Bản và Đông Nam Á.

Đồ sứ tráng men hoặc đồ sơn mài chạm khắc với những thiết kế phối cảnh phức tạp như trong tranh, cùng với lụa thêu, cổ ngọc, ngà voi và pháp lam, có thể được tìm thấy trong những gia đình giàu có. Tư dinh của giới thượng lưu cũng thường được trang bị đồ gỗ cẩm lai và rèm mắt cáo trang trí lông vũ. Vật liệu viết lách của các học giả, bao gồm những chiếc bút lông chạm khắc tinh vi bằng đá hoặc gỗ, được thiết kế và sắp xếp theo một nghi thức nhất định để tạo nét thẩm mỹ.

Cuối thời nhà Minh, thú chơi những món hàng có hương vị nghệ thuật tinh tế kể trên sản sinh cơ hội làm ăn cho các nhà buôn và thậm chí là những kẻ lừa đảo ngầm. Khi còn ở Nam Kinh, tu sĩ Dòng Tên Matteo Ricci viết rằng gian thương Trung Quốc đã thu được lợi nhuận khổng lồ nhờ khả năng làm hàng nhái tài tình. Tuy nhiên, vẫn có những hướng dẫn để giúp dân chơi mới vào nghề cảnh giác, Lưu Đồng (mất năm 1637) và cuốn sách in năm 1635 của ông đã chỉ cho độc giả cách phân biệt một tác phẩm nghệ thuật là thật hay giả. Lưu Đồng tiết lộ rằng có thể giám định đồ đồng thời Minh Tuyên Tông (1426–1435) thông qua độ bóng và đồ sứ thời Minh Thành Tổ (1402–1424) thông qua độ dày.