Đế quốc Đại Minh/Văn hóa, xã hội/Dân số

Tủ sách mở Wikibooks
Điều mai đồ của Trần Hồng Thụ (1598–1652), khắc họa một người phụ nữ đang cầm chiếc quạt trên tay thưởng thức sắc đẹp của hoa mơ.

Giới sử gia Hán học đang tranh luận về số liệu dân số thực tế cho từng giai đoạn thời nhà Minh. Timothy Brook chỉ ra rằng dữ liệu điều tra dân số của triều đình nhà Minh là không rõ ràng vì nghĩa vụ sưu thuế khiến nhiều gia đình không khai báo đầy đủ nhân khẩu, và nhiều quan huyện cũng báo cáo thiếu số hộ gia đình mà họ quản lý. Qua số liệu thống kê sai lệch suốt cả triều đại, có thể thấy trẻ em thường bị tính sót, nhất là trẻ em gái. Số phụ nữ trưởng thành trên giấy tờ cũng thấp hơn thực tế; ví dụ, điều tra dân số phủ Đại Danh, Bắc Trực Lệ năm 1502 cho kết quả là 378.167 nam giới và 226.982 nữ giới. Triều đình đã cố gắng sửa đổi số liệu, sử dụng số nhân khẩu trung bình ước tính ở mỗi hộ, nhưng vẫn không giải quyết được vấn đề nan giải trong hoạt động đăng ký thuế. Sự mất cân bằng giới tính có một phần nguyên nhân đến từ hủ tục giết hại bé gái sơ sinh. Hủ tục này được ghi chép ở Trung Quốc cách đây hơn hai nghìn năm, và được các tác giả đương thời mô tả là "tràn lan", "hầu hết gia đình đều thực hiện". Tuy nhiên, nó vẫn khó mà giải thích được tỷ lệ chênh lệch giới tính đáng kinh ngạc, mà nhiều huyện báo cáo là vượt quá 2 nam/1 nữ vào năm 1586.

Minh Tuyên Tông (1425-1435) tuyên bố vào năm 1428 rằng dân số nhà Minh đang suy giảm do hoạt động xây dựng cung điện và các chuyến viễn chinh quân sự. Nhưng thực tế dân số vẫn đang tăng lên, điều được một tổng đốc Nam Trực Lệ ghi nhận trong báo cáo năm 1432.

Theo đợt điều tra dân số năm 1381, dân số cả nước là 59.873.305 người; tuy nhiên, con số này giảm đáng kể khi triều đình phát hiện ra rằng khoảng 3 triệu người đã mất tích trong đợt điều tra thuế năm 1391. Mặc dù hành vi khai báo thiếu nhân khẩu bị khép tội tử hình vào năm 1381, nhu cầu sinh tồn vẫn thúc đẩy nhiều người bỏ đăng ký thuế và lang thang khắp khu vực cư trú. Để giảm thiểu tình trạng này, triều đình nhà Minh đã điều chỉnh số liệu một cách dè dặt hơn. Năm 1393, họ ước tính dân số là 60.545.812 người. Trong Studies on the Population of China, Hà Bỉnh Lệ đề xuất nên sửa đổi số liệu lên thành 65 triệu người, vì ông cho là đợt điều tra dân số năm 1393 đã bỏ sót Hoa Bắc và vùng biên giới rộng lớn. Brook chỉ ra rằng số liệu trong các đợt điều tra sau năm 1393 dao động từ 51 đến 62 triệu người trong khi dân số vẫn tăng. Ngay cả Minh Hiếu Tông (1487-1505) cũng phải nhận xét rằng dân số đang tăng tỷ lệ nghịch với số lượng thường dân và binh lính có tên trong sổ sách. William Atwell ước tính dân số Trung Quốc vào khoảng năm 1400 là 90 triệu người.

Để tìm kiếm bằng chứng cho sự gia tăng dân số ổn định, giới sử gia chuyển hướng sang nghiên cứu các tập địa chí. Brook ước tính dân số toàn quốc dưới thời Minh Hiến Tông (1464-1487) là khoảng 75 triệu người, mặc dù số liệu nhà Minh công bố chỉ là 62 triệu. Giữa thời nhà Minh, nhiều châu phủ trên khắp đế quốc đều báo cáo quy mô dân số đang giảm dần hoặc tăng chậm, nhưng các tập địa chí thì lại cho thấy có một lượng lớn lao động nhập cư ở khắp các vùng miền và do không đủ đất canh tác nên họ sớm trở thành những kẻ lang bạt, lừa đảo, hoặc tiều phu góp phần vào nạn phá rừng. Minh Hiếu Tông và Minh Vũ Tông đã giảm bớt hình phạt với những người cố ý tha hương, trong khi Minh Thế Tông (1521-1567) thì lại yêu cầu tiến hành đăng ký thuế cho người di cư ở tất cả những nơi họ từng sinh sống hoặc lẩn trốn nhằm thu thuế một cách triệt để nhất.

Ngay cả khi Minh Thế Tông đã thực hiện các cải cách hòng kiểm soát trên giấy tờ lao động và thương nhân nhập cư, vào cuối thời nhà Minh, công tác điều tra dân số vẫn không thể phản ánh tốc độ gia tăng nhân khẩu chóng mặt. Nhiều tập địa chí trên khắp đế quốc cũng ghi nhận điều này và tự đưa ra ước tính dân số toàn quốc, một số cho rằng dân số đã tăng gấp hai, gấp ba, hoặc thậm chí là gấp năm lần kể từ năm 1368. Fairbank phỏng đoán rằng dân số nhà Minh có lẽ là 160 triệu người vào cuối triều đại, Brook cho là 175 triệu, Ebrey thì đưa ra con số 200 triệu. Tuy nhiên, năm 1641, một trận đại dịch thâm nhập vào Trung Quốc qua phía tây bắc đã gây thiệt hại nhân mạng nặng nề cho các khu vực đông đúc dọc Đại Vận Hà; một tập địa chí ở miền bắc Chiết Giang ghi nhận hơn một nửa dân số ngã bệnh trong năm đó, và 90% cư dân tại một khu vực cụ thể đã chết vào năm 1642.