Sách tam giáo/Khổng giáo/Kinh sách nho giáo/Sách Trung dung

Tủ sách mở Wikibooks

Sách Trung dung (中庸 Zhōng Yóng) là một trong bốn kinh sách của bộ Tứ Thư của Nho giáo hay Khổng giáo. Cả hai quyển sách Đại họcTrung dung trước đây là những thiên trong Kinh Lễ, sau các Nho gia đời Tống tách riêng ra làm hai quyển để hợp với sách Luận Ngữ và Mạnh Tử thành bộ Tứ Thư. Sách Trung dung dạy về lý lẽ của Trung dung nói về lề lối cư xử ứng xử ôn hoà không lệch lạc

Sách Trung Dung do Tử tư làm ra . Tử Tư là con trai của Khổng Lý, là cháu đích tôn của Khổng Tử. Thời trẻ, Tử Tư được ông nội dạy vỡ lòng. Tử Tư theo học Tăng Sâm, từng nhiều lần cự tuyệt vua Lỗ mời xuất sĩ, nhưng từng làm thầy của Lỗ Mục công. Tử Tư là thầy của Mạnh Kha. Sau khi Khổng Tử qua đời, Nho gia phân tán. Bộ phận Nho gia theo trường phái tư tưởng của Tử Tư (子思之儒; Tử Tư chi nho) được Hàn Phi xếp hàng thứ hai trong Bát Nho. Tuân Khanh coi tư tưởng của Tử Tư và Mạnh Tử có sự thống nhất, gọi chung là Tư Mạnh (思孟). Đời sau gọi là học phái Tư Mạnh.


Ý nghĩa Trung dung[sửa]

Trung là tiếng Hán việt có nghỉa là ở giửa không thiên vị , không lệch lạc . Dung là tiếng Hán việt có nghỉa là Hòa hợp không chia rẻ , không khác biệt

Thí dụ[sửa]

Vũ trụ và vạn vật

Vũ trụ và vạn vật luôn luôn biến hóa theo lẽ điều hòa và tương đối, lưu hành mãi mãi không lúc nào ngừng nghỉ. Thiên đạo đã không cố định thì việc đời có gì là cố định? Vậy ta cứ tùy thời mà hành động, miễn sao giữ được sự điều hòa và trung chính. Làm việc gì cũng phải lấy Trung Dung làm căn bản, tức là không thái quá, cũng không bất cập, luôn luôn thích hợp với Đạo Trung hòa của Trời Đất .

Nhân tình

Khi tình cảm như vui mừng, hờn giận, đau thương, khoái lạc chưa biểu hiện ra thì gọi là Trung . Biểu hiện ra rồi nhưng phù hợp, đúng mức thì gọi là Hòa. Trung là điều cơ bản lớn nhất trong thiên hạ. Hòa là chuẩn tắc phổ biến nhất trong thiên hạ. Trung hòa mà đạt đến tột cùng thì mọi cái trong trời đất đều ở vị trí thỏa đáng, vạn vật sẽ sinh sôi nảy nở.

Quân tử và tiểu nhân

Lời nói và việc làm của người quân tử thì phù hợp với chuẩn tắc trung dung, còn kẻ tiểu nhân thì phản lại trung dung. Người quân tử luôn giữ trạng thái trung hòa, không thái quá hay bất cập. Kẻ tiểu nhân thì không hề lo sợ, nể nang hay e dè , nên cách nói năng của và hành động của kẻ tiểu nhân không thái quá thì cũng bất cập. Người quân tử phải giữ trọn đạo Trung dung trong bất cứ hoàn cảnh nào .
Người quân tử vừa ra sức coi trọng đạo đức vốn có của mình, vừa ra sức chăm lo học tập; vừa phấn đấu đạt đến tầm rộng lớn của đạo, vừa nắm hết chỗ tinh vi tận cùng của đạo. Muốn có được đạo đức cao minh, phải thông hiểu đạo lý trung dung, ôn tập những kiến thức đã nắm chắc, từ đó mà thu hoạch thêm những kiến thức mới; trung hậu, chất phác, giản dị lại ham chuộng lễ nghi nghiêm túc. Khi ở ngôi cao thì không kiêu ngạo, khi làm kẻ dưới thì chẳng dám gây điều trái nghịch, bất chấp lễ nghĩa. Khi nước có đạo, người quân tử có thể ra giúp nước, nghĩ mưu kế để khiến nước nhà hưng thịnh. Khi nước không có đạo, người quân tử có thể dựa vào trí sáng suốt của mình, tránh cho mình khỏi bị tai ương họa hại.

Nội dung[sửa]

1

天 命 之 謂 性 , 率 性 之 謂 道 , 修 道 之 謂 教.

Thiên mệnh chi vị tính; suất tính chi vi đạo, tu đạo chi vị giáo.
Mệnh Trời gọi là “tính”, phát triển thuận theo “tính” gọi là “đạo”, tu dưỡng theo “đạo” gọi là “giáo”.


道 也 者 不 可 須 臾 離 也; 可 離 非 道 也; 是 故 君 子 戒 慎 乎 其 所 , 不 睹, 恐 懼 乎 其 所 不 聞, 莫 見 乎 隱, 莫 顯 乎 微, 故 君 子 慎 其 獨 也.

Đạo dã giả bất khả tu du ly dã; khả ly phi đạo dã; thị cố quân tử giới thận hồ kỳ sở bất đổ, khủng cụ hồ kỳ sở bất văn, mạc hiện hồ ẩn, mạc hiển hồ vi; cố quân tử thận kỳ độc dã.
Đạo là cái không thể xa rời dù chỉ trong chốc lát . Nếu có thể xa rời được, thì đã không phải là đạo. Bởi thế, quân tử phải cảnh giác thận trọng ở chỗ người không nhìn thấy, lo lắng sợ hãi ở chỗ người không nghe thấy. Chẳng có gì rõ hơn vật che giấu, chẳng có gì hiển lộ hơn những việc nhỏ bé. Cho nên người quân tử đặc biệt phải thận trọng


喜, 怒, 哀, 樂 之 未 發, 謂 之 中; 發 而 皆 中 節 謂 之 和. 中 也 者, 天 下 之 大 本 也, 咊 也 者, 天 下 之 逹 道 也. 致 中 和: 天 地 位 焉, 萬 物 育 焉.

Hỷ, nộ, ai, lạc chi vị phát, vị chi trung; phát nhi giai trúng tiết vị chi hoà. Trung dã giả, thiên hạ chi đại bản dã; hoà dã giả, thiên hạ chi đạt đạo dã. Trí trung hoà: thiên địa vị yên, vạn vật dục yên.
Mừng, giận, buồn, vui khi chưa biểu hiện ra, gọi là “Trung” . Biểu hiện ra mà phù hợp với quy củ mức độ, thì gọi là “Hoà”. Trung là gốc lớn của thiên hạ, hoà là đạo lí thông đạt trong thiên hạ. Gắng sức đạt tới trung hoà, thì trời đất có được vị trí thoả đáng, muôn vật được phát sinh sinh trưởng.
2

仲 尼 曰: 君 子 中 庸, 小 人 反 中 庸, 君 子 之 中 庸 也, 君 子 而 時 中; 小 人 之 反 中 庸 也, 小 人 而 無 忌 憚 也.

Trọng Ni viết: Quân tử trung dung, tiểu nhân phản trung dung; quân tử chi trung dung dã, quân tử nhi thì trung; tiểu nhân chi phản trung dung dã, tiểu nhân nhi vô kỵ đạn dã.
Trọng Ni nói : Người quân tử thì trung dung, kẻ tiểu nhân thì phản trung dung. Người quân tử trung dung, là vì người quân tử (lời nói cũng như việc làm) luôn luôn ở vào vị trí thích đáng vừa phải. Kẻ tiểu nhân phản trung dung, là vì kẻ tiểu nhân không biết kiêng nể điều gì (nên cứ làm bừa).
3

中 庸 其 至 矣 乎! 民 蘚 能 久 矣.

Trung dung kỳ chí hỹ hồ! Dân tiển năng cửu hỹ.
Đạo trung dung thật là tuyệt vời! Dân chúng đã rỏ từ lâu mà ít ai làm được.
4

子 曰: 道 之 不 行 也,我 知 之 矣; 知 者 過 之,愚 者,不 及 也.道 之 不 明 也,我 知 之 矣;賢 者 過 之,不 肖 者,不 及 也; 人 莫 不 飮 食 也,蘚 能 知 味 也.

Tử viết: Đạo chi bất hành dã, ngã tri chi hỹ; trí giả quá chi, ngu giả bất cập dã. Đạo chi bất minh dã, ngã tri chi hỹ; hiền giả quá chi, bất tiếu giả, bất cập dã; nhân mạc bấ ẩm thực dã, tiển năng tri vị dã.
Khổng Tử nói: Nguyên nhân khiến Đạo không thực hành được , người trí thì thái quá, kẻ ngu thì bất cập. Nguyên nhân khiến đạo chẳng được người đời biết đến .Người hiền thì thái quá, kẻ bất tiếu thì bất cập. Người ta ai không ăn không uống, nhưng rất ít người biết được mùi vị.
5

子 曰: 道 其 不 行 矣 夫.

Tử viết: Đạo kỳ bất hành hỹ phù.
Khổng Tử nói: “Đạo có lẽ không thi hành được”!
6

子 曰: 舜 其 大 知 也 輿.舜 好 問 而 好 察 邇 言,隱 惡 而 揚 善,執 其 両 端,＀ 用 其 中 於 民,其 斯 以 爲 舜 乎?

Tử viết: Thuấn kỳ đại trí dã dư! Thuấn hiếu vấn nhi hiểu sát nhĩ ngôn, ẩn ác nhi dương thiện, chấp kỳ lưỡng đoan, dụng kỳ trung ư dân, kỳ tư dĩ vi Thuấn hồ?
Khổng Tử nói: “Thuấn có lẽ là bậc đại trí vậy! Thuấn ham học hỏi , khéo xem xét những lời nói , che lấp những điều sai lầm , phát huy những điều đứng đắn tốt lành . Nắm lấy hai phía đối lập, chọn lấy cái đúng đắn thích hợp mà vận dụng, đó là cái cách để Thuấn trở thành Thuấn chăng?“
7
8
9
10
11
11
12

君 子 之 道 費 而 隱. 夫 婦 之 愚 可 以 與 知 焉. 及 其 至 也, 雖 聖 人 亦 有 所 不 知 焉. 夫 婦 之 不 肖 可 以 能 行 焉. 及 其 至 也, 雖 聖 人 亦 有 所 不 能 焉.天 地 之 大 也, 人 猶 有 所 撼. 故 君 子 語 大, 天 下 莫 能 載 焉, 敔 小,天 下 莫 能 破 焉.

詩 云: 鳶 飛 戾 天, 魚 躍 于 淵. 言 其 上 下 察 也.

Đạo của người quân tử thật rộng lớn nhưng cũng rất vi diệu khó lường. Dẫu là những người ngu dốt trong đám đàn ông, đàn bà bình thường, cũng có thể biết được phần nào. Còn như đến đỉnh điểm của nó, thì dẫu thánh nhân cũng còn có điều không biết. Dẫu là những người kém cỏi trong đám đàn ông, đàn bà bình thường, cũng có thể thi hành được phần nào. Còn như đến đỉnh điểm của nó, thì dẫu thánh nhân cũng còn có điều không làm được. Rộng lớn như trời đất, mà người ta còn cảm thấy có chỗ không vừa ý. Cho nên đạo của người quân tử, nếu nói chỗ lớn, thì trong thiên hạ chẳng có gì có thể bao chứa được nó; nếu nói chỗ nhỏ, thì trong thiên hạ chẳng có gì có thể tách chia được nó.
Kinh Thi nói: “Con diều bay lên trời cao, con cá lặn xuống vực sâu”. Tức là nói cả trên trời, dưới đất vậy.


24