Bước tới nội dung

Sách tôn giáo/Tôn giáo trên thế giới/Sách Tôn giáo Hy lạp

Tủ sách mở Wikibooks


Tôn giáo Hy Lạp cổ đại bao gồm bộ sưu tập tín ngưỡng, nghi lễ và thần thoại bắt nguồn từ Hy Lạp cổ đại dưới hình thức cả tôn giáo công cộng và tập tục tôn giáo phổ biến. Hầu hết Hy Lạp cổ đại ghi nhận mười hai vị thần lớn Olympia và các nữ thần - Zeus, Hera, Poseidon, Demeter, Athena, Ares, Aphrodite, Apollo, Artemis, Hephaestus, Hermes, và một trong hai Hestia hoặc Dionysus - mặc dù các triết học như chủ nghĩa khắc kỷ và một số hình thức của chủ nghĩa Platon sử dụng ngôn ngữ dường như giả định một vị thần siêu việt duy nhất. Việc thờ phụng các vị thần này và một số vị thần khác đã được tìm thấy trên khắp thế giới Hy Lạp, mặc dù họ thường có các văn bia khác nhau để phân biệt các khía cạnh của vị thần và thường phản ánh sự hấp thụ của các vị thần địa phương khác vào danh sách các vị thần thời Hellenic.

Các tập tục tôn giáo của người Hy Lạp đã vượt ra khỏi Hy Lạp đại lục, đến các đảo và bờ biển Ionia ở Tiểu Á, đến Magna Graecia (Sicily và miền nam nước Ý), và đến các thuộc địa Hy Lạp rải rác ở Tây Địa Trung Hải, như Massalia (Marseille). Các tôn giáo đầu tiên của Ý như Etruscan chịu ảnh hưởng của tôn giáo Hy Lạp trong việc hình thành phần lớn tôn giáo La Mã cổ đại.

Hình thành và phát triển tôn giáo Hy lạp

[sửa]

Sự sùng bái mười hai vị thần đỉnh Olympus của người Hy Lạp có thể bắt nguồn từ thế kỷ thứ VI TCN ở thành Athens và gần như không có tiền lệ vào thời kỳ văn hóa Mycenae. Việc thờ phụng mười hai vị thần Olympus thường được xác định bắt đầu vào thời gian Pesistratos lên nhiếp chính ở thành Athens, vào năm 522/521 TCN. 12 vị thần là những vị thần chính trong điện thờ của người Hy Lạp, cai trị trên đỉnh Olympus. Các vị thần đỉnh Olympus giành quyền thống trị sau khi Zeus lãnh đạo các vị thần giành chiến thắng trong trận chiến với các Titan.Tài liệu cổ xưa nhất về các nghi thức tôn giáo với các vị thần được tìm thấy trong các bài thơ Homer ca tụng Hermes

Thờ thần

[sửa]

12 vị thần trên đỉnh Olympus

  1. Zeus,
  2. Hera,
  3. Poseidon,
  4. Demeter,
  5. Athena,
  6. Hestia,
  7. Apollo,
  8. Artemis,
  9. Ares,
  10. Aphrodite,
  11. HephaestusHermes
  12. Dionysos thế chỗ của Hestia


Chủ nghỉa tôn giáo Hy lạp

[sửa]

Chủ nghĩa khắc kỷ Aristoteles

[sửa]

Chủ nghĩa khắc kỷ (hay chủ nghĩa stoic/stoa, tiếng Hy Lạp: Στωικισμός, tiếng Latinh: Stoicismus) là một trường phái triết học Hy Lạp cổ đại do Zeno thành Citium sáng lập ra tại Athens vào đầu thế kỷ thứ 3 Trước Công Nguyên. Chủ nghĩa khắc kỷ là một nhánh triết học về đạo đức con người, thứ được tạo ra bằng luận lý và cách mà con người nhìn nhận bản chất thế giới.

Chủ nghĩa khắc kỷ cho rằng

Vì con người là một sinh vật thuộc về xã hội, nên con đường đi tới eudaimonia (hạnh phúc) của chúng ta sẽ được tìm ra thông qua việc chấp nhận việc mọi thứ đang diễn ra, không cho phép bản thân bị kiểm soát bởi những khao khát được thỏa mãn hoặc sợ hãi trước những đớn đau, thông qua việc sử dụng trí óc của mình để hiểu thế giới này và làm những phần việc mình cần làm để đóng góp cho kế hoạch mà tự nhiên đã vạch ra sẵn, và thông qua việc cùng làm việc, đối xử với những người khác một cách công bằng, bất thiên vị.

Những con người Stoic được biết đến nhiều nhất qua những lời răn dạy rằng "đức hạnh là điều tốt đẹp duy nhất" đối với con người, và rằng những thứ xung quanh ta, ví dụ như sức khỏe, tiền bạc và niềm vui, về bản chất không xấu cũng chẳng tốt (adiaphora), nhưng chúng có giá trị là "điều quan trọng để đức hạnh hành động". Bên cạnh đạo đức Aristoteles, những nguyên tắc của khắc kỷ cũng đã tạo nên trong những cách tiếp cận nền tảng có giá trị lớn lao tạo nên luân lý luận đức hạnh của phương Tây.[2]

Con người khắc kỷ còn cho rằng những cảm xúc nhất định của chúng ta bị tổn thương là do sai lầm trong việc phán xét các vấn đề, và họ tin rằng con người nên hướng tới việc duy trì ý chí (gọi là prohairesis) sao cho "hòa hợp với tự nhiên". Chính lý do này, những người theo chủ nghĩa khắc kỷ tin rằng dấu hiệu rõ ràng nhất về triết lý của mỗi cá nhân sẽ được bộc lộ, không phải thông qua lời họ nói, mà thông qua cách họ cư xử. Để có một cuộc sống tốt đẹp, con người phải hiểu được những quy tắc của trật tự tự nhiên bởi lẽ chủ nghĩa khắc kỷ tin rằng tự nhiên chính là gốc rễ của mọi điều.

Chủ nghĩa Platon

[sửa]

Chủ nghĩa Platon là triết lý của Plato hoặc tên của các hệ thống triết học khác được coi là có nguồn gốc từ nó. Trong cách sử dụng hẹp hơn, chủ nghĩa platon, được xem như một danh từ chung, đề cập đến triết lý khẳng định sự tồn tại của các đối tượng trừu tượng, được khẳng định là "tồn tại" trong một "thế giới thứ ba" khác biệt với thế giới bên ngoài hợp lý và từ thế giới bên trong ý thức, và ngược lại với chủ nghĩa danh nghĩa.

Theo nghĩa hẹp hơn, thuật ngữ này có thể chỉ ra giáo lý của chủ nghĩa hiện thực Platonic. Khái niệm trung tâm về chủ nghĩa Platon, một sự phân biệt thiết yếu đối với Lý thuyết Hình thái, là sự phân biệt giữa thực tế dễ nhận biết nhưng không thể hiểu được, và thực tế không thể hiểu được nhưng dễ hiểu. Các hình thức thường được mô tả trong các cuộc đối thoại như Phaedo, Hội nghị chuyên đề và Cộng hòa như các kiểu mẫu hoàn hảo siêu việt mà các đối tượng trong thế giới hàng ngày là các bản sao không hoàn hảo.

Tham khảo

[sửa]