Sách tôn giáo/Tôn giáo trên thế giới/Sách Hỏa giáo

Tủ sách mở Wikibooks

Hỏa giáo (Ba tư) hay Bái hỏa giáo (cũng còn được gọi là Hiên giáo, Hỏa hiên giáo, Đạo Zoroast, Đạo Mazda hay Mazde, Hỏa yêu giáo) là tôn giáo do nhà tiên tri Zoroaster (Zarathushtra) sáng lập vào khoảng cuối thế kỷ 7 TCN tại miền Đông Đế quốc Ba Tư cổ đại. Tôn giáo này phát triển mạnh ở Ba Tư từ thế kỷ 7 TCN, sau đó, phát triển sang nhiều nước khác ở Trung Đông, Ấn Độ và Trung Hoa.

Zarathushtra[sửa]

Zarathushtra là một nhà tiên tri cổ đại sống ở thế ỷ 7 người sáng lập ra Hỏa giáo . Từ họ Spitama của ông có thể nhận thấy ông xuất thân trong 1 gia đình kỵ sĩ quý tộc Anxi . Theo căn cứ từ các truyền thuyết của Hỏa giáo thì ông sinh vào 628TCN, mất 551TCN, tuy nhiên vẫn có nhiều tranh luận về năm sinh của Zarathustra, đa phần ước tính vào khoảng 1000 năm TCN.

Năm 20 tuổi Zarathustra bỏ nhà sống ẩn dật, năm 30 tuổi nhận được “thần khải” nên đã tiến hành cải cách đối với Đạo Đa thần truyền thống của Ba Tư, sáng lập ra Bái Hỏa giáo. Sau đó, ông lưu lạc ở nhiều vùng Ba Tư, bị đại biểu thần quyền quan lại Ba Tư bức hại, rất ít người tin theo ông.

Năm 558TCN, ông được quốc vương Vishtaspa của Batricia tiếp đón, quan tể tướng nước này lấy con gái ông làm vợ nê được nhiều quan đại thần và quý tộc tin theo.Từ đó, Bái Hỏa giáo có địa vị vững chắc, từ miền Đông Ba Tư phát triển tới miền Tây và các vùng lân cận.

Năm 551 TCN, trong cuộc chiến giữa Vishtaspa và Axeospai của tộc Tolonia, Zarathustra bị sát hại ở miếu thần.

Hình thành và phát triển Hỏa giáo[sửa]

Với nguồn gốc có thể có niên đại từ thiên niên kỷ thứ hai TCN, sự xuất hiện Hỏa giáo trong lịch sử được ghi lại trong thế kỷ 5 TCN, kết hợp với thần Mithraic của người Median và Zurvanist của triều đại Sassanid, Hỏa giáo đã trở thành quốc giáo của đế quốc Ba Tư trong khoảng thời gian từ năm 600 TCN tới năm 650 trong các triều đại Achaemenid, ArsacidSassanid.Trong giai đoạn này Hỏa giáo cũng lan truyền nhanh chóng sang Ấn ĐộTrung Hoa.

Vào cuối thế kỷ 7, Hồi Giáo Ả Rập chiếm Ba Tư và mọi người dân xứ này bị buộc phải bỏ đạo Hỏa Giáo để theo Hồi Giáo. Nhiều tín đồ Hỏa Giáo phải giữ đạo trong bí mật. Đến thế kỷ 9 và 10, chính quyền Hồi Giáo truy nã gắt gao những người Hỏa Giáo còn sót lại khiến cho các tín đồ Hỏa Giáo trung kiên phải bỏ chạy ra nước ngoài.

Nhiều người thuộc giáo phái Manichaeanism của Hỏa Giáo trốn sang Trung Quốc và gây nhiều ảnh hưởng quan trọng tại nước này. Từ thế kỷ 9 người Trung Quốc đã biết đến tôn giáo của Ba Tư và gọi tôn giáo này là Hỏa Giáo hoặc Thánh Hỏa Giáo. Một số người Ba Tư thuộc giáo phái Mithraism trốn sang Âu Châu, còn lại số đông chạy sang Ấn Độ.

Mặc dầu bị Hồi Giáo đàn áp qua nhiều thế kỷ, hiện nay tại Ba Tư (tức Iran) vẫn còn khoảng 200.000 tín đồ Hỏa Giáo. Con cháu của những người Ba Tư tỵ nạn tôn giáo cách đây hơn một ngàn năm vẫn còn tồn tại ở Ấn Độ khoảng 150.000 người. Người Ấn Độ gọi họ là người Parsi do đọc trại tên nước Persia (Ba Tư) mà ra.

Hỏa Giáo Ba Tư coi như đã bị xóa tên khỏi danh sách các tôn giáo trên thế giới hiện nay nhưng rất nhiều giáo lý quan trọng của Hỏa Giáo Ba Tư như: chỉ tôn thờ một Thiên Chúa, tin có Thiên Thần và Ma Quỉ, Thiên Đàng và Hỏa Ngục, Ngày tận thế, mọi người chết sẽ sống lại để hiện diện trong ngày Phán Xét Cuối Cùng... Tất cả đều đã hòa nhập vào cốt tủy của đạo Do Thái. Rồi từ đạo Do Thái, các đạo hậu sinh như Ki Tô Giáo (Công Giáo, Tin Lành, Anh Giáo, Chính Thống) và Hồi Giáo đã sao chép lại những giáo lý đó mà họ tưởng là của các tiên tri Do Thái, nhưng họ không hề biết rằng tác giả của những giáo lý đó là một người Ba Tư tên là Zoroaster. Các tiên tri Do Thái chỉ là những đứa học trò đã học những bài học giáo lý của Zoroaster trong những thế kỷ Do Thái bị Ba Tư đô hộ, từ thế kỷ 6 đến 4 trước Công Nguyên. Những giáo lý của Hỏa Giáo Ba Tư đã tạo nên những yếu tố đồng nhất tiêu biểu cho tất cả các đạo thờ Chúa hiện nay. Nói cách khác, Hỏa Giáo Ba Tư vẫn hiện diện và mãi mãi tồn tại trong linh hồn của các đạo thờ Chúa.

Quan niệm Hỏa giáo[sửa]

Các đặc điểm nổi bật của Hỏa giáo, bao gồm lòng tin vào một đấng cứu rỗi sẽ tới cứu giúp nhân loại, thiên đàng và địa ngục, và tự do ý chí được cho rằng đã ảnh hưởng đến các hệ thống tôn giáo sau đó như: Do thái giáo đền thờ thứ hai, thuyết ngộ đạo, Kitô giáo và Hồi giáo.

  • Ảnh hưởng rõ rệt nhất của Hỏa Giáo Ba Tư đối với các đạo thờ Chúa (Do Thái, Ki Tô, Hồi) là ý niệm về Thiên Thần. Tất cả các tên thiên thần quen thuộc như Mi-ca-e (Michel, Micheal) Gabriel, Raphael và ý niệm về các thiên thần hộ mạng (guardian angels) đều là những sản phẩm của Hỏa Giáo Ba Tư. Những ý niệm về thiên thần xuất hiện lần đầu tiên tại Ba Tư (nay là Iran) vào khoảng năm 1000 TCN, khi nước này phát triển một tôn giáo gọi là Zoroastrianism. Tôn giáo này mang tên của vị sáng lập là Zarathrusta, phiên âm sang tiếng Hy Lạp là Zoroaster. Các học giả tôn giáo hiện nay tin rằng Zoroaster là một người có thật, sinh khoảng năm 1000 TCN hoặc sớm hơn và có thể cùng thời với Moses tức khoảng 1250 TCN.
  • Hỏa giáo cho rằng thế giới gồm hai bản nguyên đối lập đấu tranh với nhau đó là:Thiện nguyên là hóa thân của thần quang minh (Ánh Sáng) Ahura Mazda (Ahura Mazdā) hoặc Oocmut (Ormuzd) . Ác nguyên là hóa thân của thần hắc ám (Bóng Tối) Angra Mainyu (Angra Mainyu). Trong cuộc đấu tranh giữa thiện và ác, con người có thể có ý chí lựa chọn tự do, cũng có quyền quyết định vận mệnh của mình.
  • Tôn giáo này tin rằng, con người sau khi chết, linh hồn phải chịu sự phán xét cuối cùng của Ahura Mazđa. Thần quang minh căn cứ vào lời nói và việc làm trên trần gian của con người và cho họ lên thiên đường hay vào địa ngục. Do đó, trong lúc còn sống, mọi người phải làm điều thiện, tránh điều ác, bỏ đen tối đi vào chỗ sáng. Tôn chỉ đạo đức của Hỏa giáo là: "Nghĩ điều thiện, nói điều thiện, làm điều thiện".
  • Hỏa giáo cho lửa là đại biểu của quang minh và điều thiện, là tượng trưng cho Ahura Mazđa, do đó có nghi lễ thờ lửa. Trong đền thờ của Hỏa giáo thường xuyên có một ngọn lửa để thờ, gọi là ngọn lửa vĩnh cửu vì được giữ không bao giờ tắt. Ngọn lửa trong ngôi đền Ateshkadeh, ngôi đền chính của Hỏa giáo có từ năm 470 sau Công Nguyên, truyền qua nhiều nơi trước khi được lấy về đền này vào đầu thế kỷ 20. Ngọn lửa hiện đang cháy trong một cái lò bằng đồng, đặt trong căn phòng có những lớp tường kính bao quanh. Mọi người chụp ảnh ngọn lửa qua bức tường kính ấy.
  • Tục cấm chôn cất người chết mà để xác cho loài chim thú ăn thịt gọi là Thiên táng. Hỏa giáo tôn thờ sự sạch sẽ của đất, nước, lửa và không khí... vì vậy người ta không hỏa táng để làm ô uế lửa và không khí, không thủy táng để làm ô uế nước, không địa táng để làm ô uế đất. Nhưng tục thiên táng không phù hợp với quan niệm của thời đại mới, nên từ những năm 1960 tín đồ Hỏa giáo đã phải bỏ tháp thiên táng và chấp nhận tục mai táng trong nghĩa trang ở dưới chân núi. Người ta mai táng tử thi trong những ngôi mộ bêtông, hạn chế việc làm "tổn hại" cho đất.


Nghi lễ Hỏa giáo[sửa]

Lửa thánh[sửa]

Hỏa giáo cho rằng lửa là con trai của Thần Thiện, có sức mạnh cao nhất, thanh tịnh sáng láng và mạnh mẽ. Do vậy, lửa là con mắt của chính nghĩa. Thời cổ đại Ba Tư, lửa thánh còn được phân chia theo đẳng cấp như tế tư, võ sĩ, nông dân.

Lễ tân sinh[sửa]

Nam nữ lên 7 (Ấn Độ) hoặc 10 (Ba Tư) đều phải cử hành nghi thức nhập môn do các tư tế ban cho áo thánh và dây lưng thánh để làm dấu hiệu của giáo đồ chân chính. Áo thánh dùng vải thô màu trắng may thành, hai mặt trước sau tượng trưng cho quá khứ và tương lai. Dây lưng thánh tượng trưng cho phương hướng đúng đắn, được dệt bằng 72 sợi lông cừu, vòng quanh bụng 3 lượt.

Nghi thức thanh tịnh[sửa]

Chia làm 3 phần

1) Tiểu tịnh

Vệ sinh thân thể sạch sẽ trước khi đọc kinh văn

2) Đại tịnh

Tắm gội trước khi làm lễ tân sinh hoặc kết hôn dưới sự chủ trì của một vị tư tế

3) Đặc tịnh

Chủ yếu cư hành đối với những người chuẩn bị đảm nhận thần cức hoặc vận chuyển thi thể người chết, cần phải có hai tư tế chủ trì. Những người tham gia loại nghi lễ này dưới sự canh giữ của một con chó; dùng nước, cát và nước đái bò để rửa sach ô uế ở trên thân thể đồng thời trừ bỏ ác tâm, và làm lễ trong vòng 9 ngày

Học thuyết Hỏa giáo[sửa]

Thuyết Khởi thế[sửa]

Thời kỳ thứ nhất Thần Thiện sáng tạo ra thế giới tinh thần tĩnh lặng và bất động.

Thời kỳ thứ hai, thế giới vật chất được tạo ra mà trước hết là “lửa - ánh sáng vô hạn”, có màu sắc trắng dạng hình tròn. Đồng thời thần đã dùng đất nặn thành Gayomat (người vượn) có 4 chi cao vót, ánh sáng giống mặt trời, nhưng về sau khi bị các liêu thần của Thần Ác công kích, đã bị tiêu diệt. Hạt giống của giống loài này được bảo tồn, sau 40 năm, đã nảy sinh một đôi vợ chồng đầu tiên của nhân loại. Đôi vợ chồng này giống như cây đại hoàng cuốn chặt lấy nhau, họ xem như là thủy tổ của loài người.

Thời kỳ thứ ba, hai vị thần này đã tiến hành cuộc đấu tranh quyết liệt giữa hai bên và Thần Thiện chiến thắng.

Thời kỳ thứ tư là thời kỳ Bái Hỏa giáo thống trị thế giới, quét sạch ma chúng, dẫn dắt nhân loại bước vào vương quốc của “quang minh, công bằng và chân lý”

Thuyết Mạt thế[sửa]

Nhiều học giả chuyên nghiên cứu tôn giáo cho rằng Zoroaster là người đầu tiên đưa ra thuyết Mạt Thế (Eschatology). Theo Zoroaster, mọi vật trong vũ trụ cuối cùng sẽ bị hủy diệt. Thế gian và loài người sẽ có ngày tận cùng gọi là Ngày Tận Thế (The Doomsday). Trong ngày tận thế, Thiên Chúa sẽ xét xử công tội của tất cả mọi người, do đó ngày Tận Thế còn được gọi là Ngày Phán Xét Cuối Cùng (The Last Judgement).

Để có thể tham dự Phiên Xử Cuối Cùng của Chúa thì mọi người chết đều được sống lại. Zoroaster cho rằng khi chết thì thân xác con nguời bị phân hủy thành tro bụi nhưng linh hồn chìm đắm trong cõi vô thức như trong lúc ngủ. Đến Ngày Phán Xét Cuối Cùng, Thiên Chúa sẽ sai thiên thần thổi kèn (clarion) đánh thức linh hồn và xác kẻ chết sống lại hết. Tất cả mọi người đều tập trung ở một nơi để nghe Chúa phán xử.

Sau khi được xét xử, kẻ thiện lành được lên Thiên Đàng và kẻ ác bị đày xuống Hỏa Ngục. Chính Thuyết Mạt Thế đã đưa đến niềm tin vào Thiên Đàng và Hỏa Ngục.

Kinh thánh Hỏa giáo[sửa]

Kinh Avesta là Cổ kinh Ba Tư hay Kinh thánh của Hỏa giáo . “Avetsta” có nghĩa là “tri thức”, “du lệnh” hoặc “kinh điển”, thường được gọi là Kinh cổ Ba Tư, nhưng đã bị đốt hết khi Alexandre chinh phạt vùng đất này, hiện chỉ con 1 quyển. Quyển kinh này chia ra làm 6 phần:

  1. Yasna: sách cúng tế với các bài tán ca
  2. Visprat: sách chúng thần
  3. Vidèvadat: sách đuổi ma
  4. Yashts: sách tán dương thần linh và thiên sứ
  5. Khurda: sách cầu nguyện
  6. Một quyển sách nhỏ ghi lại các bài tụng ca rời rạc.