Sách tôn giáo/Tôn giáo trên thế giới/Sách Bà la môn giáo

Tủ sách mở Wikibooks

Đạo Bà-La-Môn (Brahmanism) hình thành trên cơ sở Vệ-Đà giáo, khoảng 800 năm trước Tây lịch, tức là một thời gian không dài lắm trước khi Đức Phật Thích Ca mở Phật giáo ở Ấn Độ.Đạo Bà-La-Môn thờ Đấng Brahma là Đấng tối cao tối linh, là linh hồn của vũ trụ.

Đạo Bà-La-Môn đưa ra những kinh sách giải thích và bình luận Kinh Véda như: Kinh Brahmana, Kinh Upanishad, Giải thích về Maya (tức là Thế giới ảo ảnh) và về Niết bàn.


Lịch sử hình thành và phát triển Bà-la-môn giáo[sửa]

Trong tay của các Bà-la-môn, bộ môn tế lễ đã trở thành một khoa học xử lí mối tương quan giữa năng lực hữu hiệu trong quá trình tế lễ và quy luật vũ trụ. Những mối tương quan giữa đại vũ trụ và vi quan vũ trụ, giữa chân ngôn với năng lực đi kèm và đối tượng được chân ngôn chỉ đến cũng như giữa hành vi tế lễ và sự việc xảy ra trong tương lai, tất cả đã dẫn đến một quan niệm bao gồm thế gian và sự tế lễ mà trong đó, người ta không cần thần thánh nữa.

Trong thời đoạn người ta không cần thần thánh nữa và Phệ-đà giáo cũng được gọi là Bà-la-môn giáo. Trong thời gian này, người ta tìm thấy những gì ban đầu chỉ được nhắc đến sơ qua trong Phạm thư, và không lâu sau đó được các Áo nghĩa thư trình bày rõ ràng: Khái niệm tái sinh và quy luật nhân quả (nghiệp). Giáo lí mới này cho rằng, những hành động tốt cũng như xấu trong đời này sẽ mang kết quả trong đời sau và như thế, nó cũng khiến người ta rút lui dần từ mục đích nguyên thuỷ của Phệ-đà giáo: Một cuộc sống trên thiên đường giờ đây không còn là sự việc cứu cánh vì nơi đó vẫn chịu quy luật tái sinh tái tử cũng như nghiệp quả. Như vậy thì chỗ giải thoát không thể có được nơi chư thiên và cũng không thể đạt được qua việc cúng tế. Giải thoát chỉ có thể được thực hiện qua trí huệ và mục đích của nhận thức này là trạng thái bất tử (sa. amṛtatva), cơ sở của tất cả những hiện hữu: brahman, hoàn toàn tương đồng với ātman, cái tiểu ngã. Với khái niệm này, tôn giáo Phệ-đà đã vượt qua cái bóng của chính nó.

Ý nghĩa của sự cúng tế được ghi vấn lại và con đường được mở rộng cho những phong trào tôn giáo cải cách mới như Phật giáo, Kì-na giáo, cũng như những nhánh vô thần khác (ví như Số luận phái, xem thêm Triết học Ấn giáo), hệ Bất nhị nhất nguyên và những tôn giáo thờ Nhất thần. Một vài phong trào nêu trên phản đối độc quyền thực hiện nghi lễ của Bà-la-môn và phản đối chế độ chủng tính nói chung.

Tôn giáo Phệ-đà mất vị trí hàng đầu ở Bắc Ấn trong những thế kỉ cuối trước CN, tại Nam Ấn thế kỉ thứ nhất. Nó vẫn tồn tại, nhưng chỉ trong một phạm vi hạn chế và gây ảnh hưởng nhất định trong lĩnh vực triết học dưới dạng Di-mạn-sai. Sau sự phát hiện Phệ-đà của các nhà nghiên cứu châu Âu và được kích động bởi tâm tư hào hứng truy nguyên của họ, người Ấn Độ cũng đã quay về với giáo lí Phệ-đà với những dấu hiệu rõ rệt trong trào lưu Tân Ấn Độ giáo cải cách sau này.

Bàlamôn giáo là sự tiếp tục Veda giáo cổ, vào khoảng 500 TCN - 500 năm CN10. Tín đồ của Bàlamôn giáo chủ yếu là những người gốc Aryan vốn sống bán du mục ở phía Bắc du nhập nhiều đợt vào miền Tây và Tây bắc Ấn Độ trong khoảng thời gian dài 1700 - 1200 TCN và trở thành kẻ thống trị vùng văn hóa này.

Sự phát triển của tôn giáo Phệ-đà theo hướng nhấn mạnh sự thanh tịnh trong khi thực hiện tế lễ thần thánh đã mang lại một sự chuyên hoá trong giới Bà-la-môn trong thời đoạn 1000-500 TCN. Nó cũng đồng thời loại những người ở cấp dưới, phần lớn là không thuộc nhóm Nhã-lợi-an, thuộc cấp nô lệ, ra khỏi việc thực hành tế lễ cũng như nghiên cứu Phệ-đà.

Quy định Bà-la-môn giáo[sửa]

Phân chia giai cấp xã hội[sửa]

Đạo Bà-La-Môn phân chia xã hội Ấn Độ làm 5 giai cấp. Ai sinh ra trong giai cấp nào thì phải ở mãi trong giai cấp đó suốt đời.

1. Giai cấp trên hết là các Tăng lữ Bà-La-Môn

Họ tự cho rằng họ được sinh ra từ miệng của Đấng Phạm Thiên (Brahma), nên họ được quyền giữ địa vị tối cao trong xã hội, độc quyền cúng tế Thượng Đế và các Thần linh.

2. Giai cấp thứ nhì là Sát-Đế-Lỵ

Họ được sinh ra từ vai của Đấng Phạm Thiên. Giai cấp này gồm các bậc vua chúa, quí tộc, trưởng giả, công hầu khanh tướng. Họ nắm quyền cai trị và thưởng phạt dân chúng.

3. Giai cấp thứ ba là Phệ-Xá

Họ được sinh ra từ hông của Đấng Phạm Thiên. Giai cấp này gồm các nhà thương mại, các trại chủ giàu có. Họ nắm kinh tế, chuyên môn mua bán làm ăn với các từng lớp dân chúng trong xã hội.

4. Giai cấp thứ tư là Thủ-Đà-La

Họ được sinh ra từ chân của Đấng Phạm Thiên. Giai cấp này gồm các nông dân và công nhân nghèo khổ.

5. Giai cấp thứ năm là Chiên-Đà-La

Đây là giai cấp thấp kém nhất trong xã hội Ấn Độ, gồm các người làm các nghề hèn hạ như: Ở đợ, làm mướn, chèo ghe, giết súc vật, vv …

Giáo chức[sửa]

Giới Tăng lữ Bà-La-Môn được chia làm 3 bậc: Sơ khởi, Trung và Thượng.

1. Sơ khởi là những vị Sư cúng lễ thường và những vị phục sự nơi đền chùa. Họ tụng 3 Bộ Kinh Véda đầu, gồm: Rig Véda, Yayur Véda, Sama Véda. Họ hành lễ, chứng lễ các cuộc cúng tế, nên thường trực tiếp với dân chúng.

2. Bậc trung là những vị Sư bói toán, tiên tri, thỉnh Quỉ Thần, thỉnh thoảng họ làm vài phép linh cho dân chúng phục. Hạng này đọc và giảng giải Bộ Kinh Véda thứ tư là Atharva Véda. Bộ Kinh thứ tư này có nội dung cao hơn 3 Bộ Kinh trước và có những câu Thần chú.

3. Bậc thượng là bực cao hơn hết, gồm các vị sư không còn trực tiếp với dân chúng. Hạng này chuyên nghiên cứu các lực vô hình trong vũ trụ.

Hạng Bà-La-Môn sơ khởi phải tu học 20 năm mới lên hạng trung. Hạng trung tu học 20 năm mới lên hạng thượng.Trên hết là một vị sư chưởng quản tôn giáo làm Giáo Chủ. Vị Giáo Chủ này có 70 vị sư phụ tá.

Tạo ra Luật pháp[sửa]

Luật Manu[sửa]

Giai cấp Tăng lữ Bà-La-Môn dựa vào thế lực tôn giáo để củng cố địa vị và quyền lợi của họ. Họ tìm đủ phương pháp để bảo hộ và duy trì chế độ giai cấp, nương theo thần thoại, chế ra Luật pháp Manu, kỳ thị giai cấp, không cho gả cưới giữa 2 giai cấp khác nhau.

10 Giới luật[sửa]

Các Tăng lữ Bà-La-Môn phải giữ 10 Điều Giới luật:

1. Nhẫn nhục.

2. Làm phải (lấy điều lành mà trả điều ác).

3. Điều độ.

4. Ngay thật.

5. Giữ mình trong sạch.

6. Làm chủ giác quan.

7. Biết rành Kinh Luật Véda.

8. Biết rõ Đấng Phạm Thiên.

9. Nói lời chân thật.

10. Giữ mình đừng giận.

Quan niệm Bà-la-môn giáo[sửa]

Thần linh[sửa]

Bà la môn giáo thờ thần và con người giao tế với thần qua các Tiên tri cùng vói các nghi lễ cúng thần . Bà la môn tin vào sự hiện hửu của thần linh . Thần linh có khả năng cứu giúp con người thoát khổi đau khổ trong cuộc sống hàng ngày trên trần gian . Cúng tế thần linh để được phù hộ để đạt được ước nguyện thành công trong công việc hàng ngày,

Nghiệp (Karma)[sửa]

Nghiệp là một trong các giáo lý căn bản của Phật giáo. Nghiệp theo chữ Phạn là Karma có nghĩa là hành xử . Nghiệp mà con người thường hay vướng vào Thân , khẩu , ý nghiệp . Tham vọng , Dục vọng , Chiếm đoạt , ...

Mọi nghiệp trong hiện tại của chúng ta đều do nghiệp của quá khứ và hiện tại chi phối. Hễ nghiệp lành thì được vui, nghiệp ác thì chịu khổ. Vui hay khổ chính là Nghiệp báo cho hành vi cư xử trong cuộc sống con người . Luân lý hay hành động tốt xấu (tuy nhiên, từ ‘nghiệp’ luôn được hiểu theo nghĩa tật xấu của tâm hay là kết quả của hành động sai lầm trong quá khứ) xảy ra trong lúc sống, gây nên những quả báo (Nghiệp Quả) tương ứng trong tương lai.

Đức Phật dạy nếu ai đó đem cho ta vật gì mà ta không lấy thì dĩ nhiên người đó phải mang về, có nghĩa là túi chúng ta không chứa đựng vật gì hết. Tương tự như vậy, nếu chúng ta hiểu rằng nghiệp là những gì chúng ta làm, phải cất chứa trong tiềm thức cho chúng ta mang qua kiếp khác, thì chúng ta từ chối không cất chứa nghiệp nữa. Khi túi tiềm thức trống rỗng không có gì, thì không có gì cho chúng ta mang vác. Như vậy làm gì có quả báo, làm gì có khổ đau phiền não. Như vậy thì cuộc sống cuộc tu của chúng ta là gì nếu không là đoạn tận luân hồi sanh tử và mục tiêu giải thoát rốt ráo được thành tựu..




Danh từ Bàlamôn ban đầu có nghĩa chỉ hạng người quý tộc, giáo sĩ Bàlamôn hay học giả, song trong thể chế nhà nước - tôn giáo có giai cấp, đẳng cấp Bàlamôn dần trở thành giai cấp thống trị cao nhất và Veda giáo đã được giai cấp hóa, trở thành Bàlamôn giáo có tổ chức giáo hội với quyền lực tối cao trên cả nhà nước (nhà vua và triều đình). Cũng do vậy, Bàlamôn giáo trở thành vũ khí thần quyền để bảo vệ sự bất bình đẳng giai cấp mà quyền lợi tối cao thuộc về đẳng cấp Bàlamôn. Trong bối cảnh đó, Bàlamôn giáo đã là một tôn giáo thần quyền của riêng đẳng cấp Bàlamôn trong một thời kỳ dài.


Bàlamôn giáo phát triển khuynh hướng nhất thần. Trước hết là quan niệm các thần không giữ vị trí của mình một cách riêng biệt, mà mỗi thần lại là sự thể hiện cái tuyệt đối một cách toàn diện bao gồm cả các thần khác, nhưng không có sự xung đột hoặc loại trừ giữa các vị thần. Các thần vĩ đại nhất luôn trong mối tương tác với các vị thần khác. Chẳng hạn, vai trò, vị trí của thần Brahma (Đại Thiên/Phạm Thiên/Đấng Tuyệt đối) là cao nhất, song nhiều khi cũng có thay đổi thành thần Shiva hoặc thần Visnu là cao nhất.

Sang giai đoạn Bàlamôn giáo, thần Brahman được phối hợp cùng với các thần Vishnu, Shiva hợp thành bộ ba gọi là Trimurti (Tam vị nhất thể: thần Brahma sáng tạo, thần Shiva phá hoại và thần Visnu bảo vệ). Song đó chỉ là ba phương diện của Đấng tuyệt đối, có tính toàn thể. Ba vị thần này cùng phối hợp để sự sống, sáng tạo và phát triển không ngừng tiếp diễn qua các chu kỳ. Cuối mỗi chu kỳ phát triển, thần Shiva lại tiêu diệt thế giới cũ, còn đấng Phạm Thiên (Brahma) lại tạo ra thế giới mới. Khi vào chu kỳ chuyển đổi này, con người gặp vô vàn khó khăn không thể tự giải quyết và thần Vishnu xuất hiện như một con người hay dưới một hình thức nào đó, dùng thần thông đặc biệt, đem đến sự giúp đỡ cần thiết cho loài người.


Bàlamôn giáo cho rằng đấng Brahma sáng tạo và bảo tồn vũ trụ, vạn vật và cả con người trong chế độ đẳng cấp (varṇa). Đấng Brahma đã được tôn xưng cao nhất trong triết học Vedānta sau này, tuy nhiên tư tưởng này đã có mầm mống từ trong Rig Veda, song chỉ đến giai đoạn Bàlamôn giáo mới có quan niệm đấng Brahma vĩ đại như một nguyên lý tối thượng, chi phối sức mạnh thần bí của tất cả các vị thần khác.


Bàlamôn giáo quan niệm rằng con người do bị ràng buộc trong vòng ngu dốt (vô minh) và huyễn ảo (vô thường) nên tạo nhiều nghiệp quả, vì vậy phải chịu luân hồi (samsara). Nhưng con người vẫn có khả năng thoát khỏi luân hồi, nghiệp báo bằng con đường tu luyện để trở lại hòa nhập với đấng Brahma bằng đạo đức, nghi lễ, tế tự thành kính.


Bàlamôn giáo có niềm tin rằng “Ai biết chính mình sẽ biết Thượng Đế”. Như vậy, Bàlamôn giáo khẳng định con người có thể biết Phạm Thiên (Tuyệt đối) chỉ bằng con đường trở về tự hiểu chính mình. Hướng phát triển này đã góp phần phân loại các thần theo thứ tự, mà cao nhất vẫn là thần Brahma, đồng thời làm cho lễ tế trở nên có giá trị như là một thể thức có thể làm thay đổi nghiệp quả. Song mặt khác, nó cũng góp phần đẩy sự phân biệt đẳng cấp xã hội của thời kỳ Bàlamôn giáo trở nên ngày càng khắc nghiệt.

Quy định Bà la môn[sửa]

Phân chia giai cấp[sửa]

Bàlamôn giáo phân xã hội theo chế độ luật chủng tính (varṇa) thành thứ tự 4 hạng người:

Bàlamôn (Brahmin)[sửa]

Đẳng cấp thần thánh, sinh ra từ miệng Phạm Thiên (Brahma) và có thể thay Phạm Thiên lãnh đạo tinh thần dân tộc Ấn Độ, nên họ được quyền ưu tiên và được tôn kính nhất. Họ có thể trở thành giáo sĩ làm nghề tế tự, giữ quyền thống trị tinh thần, phụ trách mọi lễ nghi, cúng bái;

Sát Đế Lị (Kshastriya)[sửa]

Vua chúa, quý tộc, sinh từ cánh tay của Phạm Thiên, nên thay mặt Phạm Thiên nắm giữ quyền hành thống trị xã hội

Vệ Xá (Vaisya)[sửa]

Sinh ra từ bắp đùi của Phạm Thiên nên đảm đương về kinh tế (buôn bán), sản xuất (trồng trọt, chăn nuôi, nghề thủ công)

Thủ Đà La (Sudra)[sửa]

Sinh từ gót chân của Phạm Thiên, nên đời đời kiếp kiếp làm nô lệ cho các giai cấp trên

Chiên Đà La (Pariah)[sửa]

Con lai của đẳng cấp thứ tư với các đẳng cấp trên, song bị gạt ra ngoài lề xã hội, và bị các đẳng cấp khác đối xử như thú vật, vô cùng khổ nhục

Giáo chức[sửa]

Giới Tăng lữ Bà-La-Môn được chia làm 3 bậc: Sơ khởi, Trung và Thượng.

Sơ khởi[sửa]

Là những vị sư cúng lễ thường và những vị phục sự nơi đền chùa. Họ tụng 3 Bộ Kinh Véda đầu, gồm: Rig Véda, Yayur Véda, Sama Véda. Họ hành lễ, chứng lễ các cuộc cúng tế, nên thường trực tiếp với dân chúng.

Bậc trung[sửa]

Là những vị sư bói toán, tiên tri, thỉnh Quỉ Thần, thỉnh thoảng họ làm vài phép linh cho dân chúng phục. Hạng này đọc và giảng giải Bộ Kinh Véda thứ tư là Atharva Véda. Bộ Kinh thứ tư này có nội dung cao hơn 3 Bộ Kinh trước và có những câu Thần chú.

Bậc thượng[sửa]

Là bực cao hơn hết, gồm các vị sư không còn trực tiếp với dân chúng. Hạng này chuyên nghiên cứu các lực vô hình trong vũ trụ.

Hạng Bà-La-Môn sơ khởi phải tu học 20 năm mới lên hạng trung. Hạng trung tu học 20 năm mới lên hạng thượng.Trên hết là một vị sư chưởng quản tôn giáo làm Giáo Chủ. Vị Giáo Chủ này có 70 vị sư phụ tá.

10 Giơi răn[sửa]

Giáo lý Bàlamôn được cụ thể hóa thành 10 giới răn (chuẩn mực đạo đức)

  1. không sát sinh (ahimsa)
  2. không nói dối (satya)
  3. không trộm cắp (asteya)
  4. biết kiềm chế dục vọng và ham muốn (brahmacharya)
  5. không tham lam (aparigraha)
  6. sạch sẽ, tinh khiết (saucha)
  7. biết bằng lòng (santosha)
  8. kỷ luật với bản thân (tapas)
  9. phải học tập (svadhyaya)
  10. vâng phục mệnh trời (ishvara pranidhana).

Mục đích sống đời người[sửa]

Đời người có 4 mục đích sống

  • Dharma - hoàn thành các nghĩa vụ luân lý, luật pháp và tôn giáo
  • Artha - mưu sinh và thành đạt trong xã hội
  • Kama - thỏa mãn các ham muốn nhưng biết tiết chế và điều độ
  • Moksa - giải thoát khỏi vòng luân hồi bằng cách giải trừ hết các nghiệp (karma) vì khi chết mà vẫn còn nghiệp thì phải chịu tái sinh vào kiếp sau ở thế gian, tức là luân hồi (samsara).

Lối sống đời người[sửa]

Đời người phải trải qua 4 giai đoạn

  1. Brahmacharga (học tập);
  2. Grhastha (lập gia đình, tạo sự nghiệp);
  3. Vanaprastha (hướng về tâm linh);
  4. Sanrgasu (thoát ly xã hội để tu hành).

Tiêu chuẩn đạo đức[sửa]

Bàlamôn giáo cũng góp phần hoàn thiện một số chuẩn mực đạo đức và nhân phẩm như

Ghi nhớ 3 trọng ân[sửa]

  1. Ơn đấng Phạm Thiên,
  2. Ơn thầy,
  3. Ơn tổ tiên

Cân bằng 3 phương diện[sửa]

  1. phụng sự (karmamarga)
  2. trí tuệ/minh triết (jnanamarga)
  3. sùng tín (bhaktimarga).

Giáo lý[sửa]

Brahman và Atman[sửa]

Brahman là nguồn gốc tối cao của vũ trụ, tức là Đại Ngã, là Đại Vũ trụ, là Đại hồn, nay thường gọi là Thượng Đế.Atman là bản ngã của con người, là Tiểu Ngã, là Tiểu hồn, Tiểu Vũ trụ. Nó chỉ là một phần rất nhỏ của Đại Ngã tách ra. Do đó, Brahman và Atman đồng bản chất, nên thông đồng được với nhau.Tu luyện là để đạt được sự giải thoát của linh hồn khỏi các khổ não ràng buộc nơi cõi trần để đem Atman trở về hiệp nhứt với Brahman.

Nhận thức được Chơn lý nầy, không phải do trí tuệ, mà do sự giác ngộ của toàn bộ bản thể. Nếu không giải thoát được thì không dứt khỏi Nghiệp (Karma), tức là không dứt khỏi Luân hồi, phải đầu thai trở lại cõi trần, hết kiếp nọ tới kiếp kia.

Nghiệp và Luân hồi[sửa]

Kinh Upanishad đã nêu ra vấn đề Nghiệp báo và Luân hồi một cách có hệ thống.

Nghiệp (Karma) được tạo ra bởi những hành vi thiện ác của con người, sẽ quyết định việc luân hồi chuyển kiếp của linh hồn người ấy sau khi chết. Nếu người nào làm điều thiện, linh hồn sẽ được chuyển kiếp thành người ở giai cấp cao hơn, và có thể thành một vị Thần, nhập vào Thiên Đạo. Nếu người ấy làm nhiều điều ác thì linh hồn sẽ chuyển kiếp đầu thai vào những giai cấp thấp kém khổ sở, và có thể bị trừng phạt đọa đày.

Con đường giải thoát là Thiền định, nhưng con đường tu nầy quá khổ hạnh, ít người theo được, nên đa số tín đồ theo việc thờ cúng Thần linh, tự kềm chế dục vọng của mình và làm việc từ thiện.

Giác ngộ và Giải thoát[sửa]

Nghi lễ[sửa]

Về nghi lễ tôn giáo, kế thừa từ Veda giáo, Bàlamôn giáo cũng tiếp tục nhiều thánh lễ, mà sau đó Hindu giáo cũng tiếp tục duy trì đến nay. Một số thánh lễ chính như

Lễ Mahashivarati[sửa]

Giữa tháng 2 tôn thờ thần Shiva

Lễ Holi (trong mùa xuân)[sửa]

Lễ hội màu sắc

Lễ Ramnavami (cuối tháng 3)[sửa]

Kỷ niệm ngày sinh của thần Ram

Loạt lễ Navaratri, Dussehra, và Durga Puja[sửa]

10 ngày liên tục trong đầu tháng 11 vừa tôn vinh nữ thần Navaratri, vừa kỷ niệm chúa Rama chiến thắng quỷ Ravana, đồng thời kỷ niệm chiến thắng của nữ thần Durga đối với trâu quỷ Mahishasura

Lễ Diwali (giữa tháng 11)[sửa]

Lễ ánh sáng với nến đèn, đốt pháo trong 3 giờ liền để kỷ niệm thời khắc chúa Ram đưa vợ là nàng Sita trở về.

Đến nay, nhiều nghi lễ này vẫn được Hindu giáo duy trì với tư cách là bản sắc văn hóa, tôn giáo của người Hindu.

Kinh thánh[sửa]

Viết bằng tiếng Sanskrit

  • Vedas (Phệ đà),
  • Upanishads (Áo nghĩa thư),
  • Bhagavad Gita (Chí tôn ca)…


Về mặt kinh điển, tuy vẫn đặt Kinh Veda lên trên hết (như đã nói ở trên), song giai đoạn Bàlamôn giáo phát triển nhiều hơn về thần học và triết học. Tín đồ Hindu giáo tin rằng thánh điển Veda không phải do con người sáng tác ra mà được khải thị cho các bậc hiền triết Bàlamôn rồi được truyền miệng qua các đời cho đến ngày nay. Các kinh điển được hoàn thiện trong thời kỳ này như:

Kinh Phạm Thư (Brahmana)[sửa]

Kinh Phạm Thư (Brahmana) được viết bằng văn xuôi, khi hệ thống 4 giai cấp trong xã hội Ấn Độ đã định hình và giai cấp Bàlamôn cũng đã khẳng định được vị trí tối cao trong xã hội. Kinh Phạm Thư mang tính thần học cao, chủ yếu giải thích ý nghĩa sự linh thiêng trong các nghi lễ khác nhau, sắp xếp các chức năng cúng tế khác nhau cho các tầng lớp tăng lữ, quy định những nghi lễ và những hệ thống biểu tượng tâm linh. Đây là giai đoạn phát triển cao của Bàlamôn giáo nên Kinh này (cũng như trong luật Manu) khẳng định rõ tăng lữ Bàlamôn có đặc quyền làm tế tự.

Kinh Sân Lâm thư (Aryanka)[sửa]

Kinh Sân Lâm thư (Aryanka) được phát triển tiếp tục từ kinh Phạm Thư, song đặc biệt chỉ dành cho những vị đạo sĩ Bàlamôn tu kín trong rừng sâu. Thay thế cho các kỹ thuật tế lễ, nội dung của Sân Lâm Thư chú trọng các kỹ thuật tập trung thiền định vào những biểu tượng tâm linh siêu việt. Các nghi thức tế lễ rườm rà dần được thay thế bởi các vấn đề suy nghiệm và tư duy triết học. Có lẽ Sâm Lâm thư là giai đoạn chuẩn bị cho sự ra đời Áo nghĩa thư (Upanishads) với nội dung tập trung vào triết học Hindu giáo nói riêng và của Ấn Độ nói chung

Kinh Áo Nghĩa Thư (Upanishad)[sửa]

Kinh Áo Nghĩa Thư (Upanishad) thực chất là tập hợp những bộ luận do giáo sĩ Bàlamôn triển khai các tư tưởng có trong kinh Veda trên phương diện thần học và mang tính triết học cao, như là phần cuối của Veda. Nhưng Upanishad được thực hiện trong một thời gian rất dài, bởi nhiều tác giả và đều không còn rõ danh tính. Upanishad là sự phát triển tiếp tục Veda, nó là phần kết của Veda và được coi là nền tảng cơ bản cho trường phái Vedanta. Tổng số có hơn 200 Upanishads, nhưng theo truyền thống người Ấn Độ nói là có 108 Upanishads. Trong đó có 10 cho đến 13 Upanishads cơ bản như: Isa, Kena, Katha, Prasna, Mundaka, Mandukya, Taittiriya, Aitareya, Chandogya và Brhadaranyaka15. Đây là những tác phẩm có nội dung thần học và triết học uyên thâm, thể hiện xu hướng nhất nguyên của Bàlamôn giáo.

Đáng chú ý, sự chuyển đổi ở các kinh đã phản ánh sự chuyển biến về tôn giáo và triết học từ giai đoạn Veda giáo sang Bàlamôn giáo. Kinh Veda chú trọng về nghi thức thờ phụng, nhưng sang giai đoạn Bàlamôn giáo, kinh Upanishad đi sâu hơn vào những vấn đề về Tự ngã (Atman hay gọi là Tiểu ngã, Linh hồn bất diệt) và mối liên hệ của chúng với bản thể Tuyệt đối (Brahma, còn gọi là đấng Phạm Thiên hay Đại Ngã) của vũ trụ vạn vật từ góc độ thần học và có xu hướng thiên về nhất thần luận. Ngay trong Upanishad cũng phần nào phản ánh điều nay, những Upanishad cổ nhất, có lẽ được biên soạn vào khoảng thế kỷ 18 - 17 TCN16, cũng khác các Upanishad muộn hơn. Upanishad cho rằng con người, cũng như mọi chúng sinh đều có một Tự ngã (Atman) bất sinh, bất diệt, thường tịnh. Nó đồng về chất với bản thể tuyệt đối (Brahman). Khi Tự ngã của chúng sinh chưa hòa nhập với bản thể tuyệt đối, thì con người vẫn còn phải luân hồi trong vòng sinh tử. Giải thoát là một trạng thái Atman đạt được sự hòa đồng với bản thể tuyệt đối (Brahman) hằng hữu vĩnh cửu. Kinh điển Bàlamôn giáo còn là hệ thống lý luận đầu tiên chứng minh cho sự hợp lý của tình trạng bất bình đẳng giai cấp bằng mô hình xã hội thần quyền, mà trong đó giới Bàlamôn được coi là đẳng cấp thần thánh, có vị trí cao nhất trong xã hội. Đó là công cụ tinh thần bảo vệ chế độ đẳng cấp của giai cấp thống trị Bàlamôn lúc đó.