Sách binh pháp

Tủ sách mở Wikibooks

Thập Nhị Binh Thư gồm 12 bộ binh thư được tập hợp và giới thiệu lần lượt là:

Lục thao binh pháp (Thái Công Khương Tử Nha)[sửa]

VĂN THAO: DỤNG NHÂN – TRỊ QUỐC[sửa]

THIÊN THỨ 1: VĂN SƯ[sửa]

Văn Vương sắp đi săn.

Sử Biên gieo quẻ bói rằng: “Đại Vương săn ở đất Vị Dương thì sẽ được việc lớn. Không phải được rồng, lân, cọp, giấu mà là điềm được bậc công hầu Trời cho xuống giúp đại vương để lập sự nghiệp, hưng thịnh như thời Tam Vương vậy”.

Văn Vương nói: “Điềm này tốt đến thế ư?”

Sử Biên tâu: “Xưa Thái tổ của thần là Sử Trù chiêm quẻ cho vua Vũ gặp Cao Dao cũng được điềm này”.

Văn Vương bèn nghỉ ngơi ăn chay ba ngày rồi xa giá đền miền Vị Dương, chợt thấy Thái Công đang ngồi dưới túp liều tranh câu cá.

Văn Vương đến úy lạo và hỏi: “Người thích câu cá lắm ư?”

Thái Công đáp: “Thần nghe nói quân tử thích thỏa chí của mình, tiền nhân thích được việc của mình. Nay thần ngồi câu ở đây cũng giống như vậy, chứ không hẳn là vui thích”.

Văn Vương hỏi: “Sao gọi là giống như thế?”

Thái Công đáp: “Câu cá có ba điều cân nhắc:

– Tùy quyền mà ban bổng lộc.

– Tùy quyền mà khiến người chết.

– Tùy quyền mà định tước quan.”

Câu cá để đạt được nguyện vọng của mình thì ý nghĩa sâu sắc có thể “làm nên việc lớn”.

Văn Vương nói: “Xin cho nghe về ý nghĩa này.”

Thái Công đáp: “Nguồn sâu nên nước chảy, nước chảy là cái Lí sinh ra cá. Rễ sâu nên cây lớn, cây lớn là cái Lí sinh ra quả. Quân tử cùng chí hướng nên hợp nhau, hợp nhau là cái Lí sinh ra sự việc.

Đối đáp bằng ngôn ngữ là cái bề ngoài của tính cách, còn câu nói chính là lẽ tận cùng của sự việc. Nay thần nói chí tình không hề kiêng nể, Đại vương có lấy làm trái ý chăng?”

Văn Vương nói: “Người có lòng nhân ái mới chịu nghe điều can gián, không ghét lời nói chí tình. Vậy những lời nói ấy là chi?”

Thái Công đáp: “Dây bé mồi nhỏ thì cá nhỏ ăn. Dây vừa mồi thơm thì cá hạng trung ăn. Cá ăn mồi nên phải mắc câu, người hưởng lộc nên phải theo vua.

Vậy câu cá bằng mồi thì cá sẽ bị bắt, giữ người bằng bổng lộc thì người sẽ làm hết mình, chiếm nước bằng nhà thì nước sẽ bị chiếm, chiếm thiên hạ bằng nước thì thiên hạ sẽ đi theo.

Ôi, miên man, dằng dặc, cảnh hợp ấy ắt phải tan rã. Tối tăm mờ mịt sẽ phải rời xa ánh sáng. Huyền diệu thay!

Cái đức của thánh nhân có thể chinh phục được thiên hạ, há chẳng đủ cho mình vui sao? Những điều lo nghĩ của thánh nhân là tùy theo địa vị của mỗi người mà thu phục họ.”

Văn Vương hỏi: “Thiên hạ không phải là của một người, thiên hạ là của thiên hạ. Chung quyền lợi với thiên hạ thì được thiên hạ, chiếm quyền lợi của thiên hạ thì mất thiên hạ.

Trời có thời, đất có của, cùng hưởng với người là “nhân”. “Nhân” ở đâu thì thiên hạ theo về đấy.

Tha cha cho người, giái cái khó của người cứu người lúc hoạn nạn, giúp người khi khốn đốn là đức. Đức ở đâu, thiên hạ theo về đấy.

Cùng lo, cùng vui, cùng thương, cùng ghét với mọi người là nghĩa. Nghĩa ở đâu thiên hạ theo về đấy.

Con người vốn tham sống sợ chết, thích đức và lợi, làm cho con người được sống được lợi là đạo. Đạo ở đâu, thiên hạ theo về đấy.

Văn Vương bái tạ và nói: “Thật là đúng hay, làm sao ta dám cãi mệnh trời”.

Bèn mời ông cùng ngự xe trở về, phong Thái Công làm Quốc sư.

THIÊN THỨ 2: DOANH HƯ[sửa]

Văn Vương hỏi Thái Công: “Thiên hạ mênh mông sao có lúc đầy lúc vơi, khi yên khi loạn? Vì vua hiền, ngu không giống nhau, hay vì thiên thời biến hóa tự nhiên sinh ra vậy?”

Thái Công đáp: “Vua ngu thì nước nguy dân loạn, vua hiền thì dân trị nước yên. Nên họa phúc là ở vua, chứ không phải ở thiên thời”.

Văn Vương nói: “Xin nghe về bậc hiền quân thưở trước”.

Thái Công đáp: “ Xưa vua Nghiêu trị vì thiên hạ, thời đó gọi người là bậc hiên quân (vua hiền)”

Văn Vương hỏi: “Chính trị thời đó ra sao?”

Thái Công đáp: “ Khi vua Nghiêu trị vì thiên hạ, không trang sức vàng bạc châu báu, không mặc đồ gấm vóc xa hoa, không nhìn vật lạ kỳ, không quí đồ tốt đẹp, không nghe nhạc phóng đãng, không trang hoàng cung viện, không chạm trổ kèo cột, không cắt cỏ trong vườn.

Dùng áo bông mặc khi trời rét, lấy áo vải để che thân, lấy gạo xấu làm cơm, lấy rau hoắc làm canh.

Không bày chuyện bắt dân sưu dịch để thiệt hại mùa màng, dân chúng. Dốc hết tâm trí vào công việc giáo hóa nhân dân.

Quan nào trung chính thi hành pháp luật thì nâng cao ngôi vị, liêm khiết thương dân thì cho bổng lộc nhiều. Ai nhân từ hiếu đễ thì kính yêu, có công trồng trọt thì khích lệ, đạo đức hiền thục thì treo biển nêu danh nơi cổng làng.

Giữ lòng công bình chính trực, dùng pháp luật ngăn cấm điều gian dối. Người mình ghét mà có công thì vẫn thưởng, người mình yêu mà có tội vẫn phạt.

Nuôi dưỡng những người già yếu, góa bụa đơn côi, giúp đỡ các gia đình tai ương chết choc.

Lễ vật dân dâng thì lấy rất nhẹ, thuế má sưu dịch thì cần rất ít nên muôn dân giàu có vui vẻ, không có cảnh đói rét điêu linh. Trăm họ thờ vua như mặt trời, mặt trăng, thương vua như cha mẹ vậy.

Văn Vương nói: “Vĩ đại thay! Cái đức của bậc hiền vương”.

THIÊN THỨ 3: QUỐC VỤ[sửa]

Văn Vương hỏi Thái Công: “Xin cho nghe về việc lớn để trị nước”

Thái Công đáp: “Chỉ cần thương dân”.

Văn Vương hỏi: “Thương dân như thế nào?”

Thái Công đáp: “Làm lợi mà đừng hại, giúp mà không phá. Để sống mà đừng giết, ban cho đừng chiếm đoạt. Để vui đừng gây khổ, khiến họ mừng mà không giận”.

Văn Vương nói: “Xin giải thích lý do”

Thái Công đáp: “Dân không mất việc là lợi, trồng trọt không lỡ màu là nên. Giảm bớt hình phạt là sống, thu thuế nhẹ là cho. Ít xây cất đền đài là vui, quan thanh liêm không sách nhiễu dân là mừng.

Dân bị mất việc là hại, trồng trọt lỡ mùa là hư. Không tội mà phạt là giết, thu thế nặng là đoạt. Xây nhiều đền đài khiến dân mỏi mệt là khổ. Quan lại tham ô sách nhiễu dân lành là giận.

Nên người trị nước chăm sóc dân như cha mẹ thương con, như anh thương em, thấy dân đói rét thì lo, thấy dân khổ nhọc thì buồn, thưởng phạt như chính mình phải chịu, thu thuế như chính mình phải đóng. Đấy là đạo thương dân”.

THIÊN THỨ 4: ĐẠI LỄ[sửa]

Văn Vương hỏi Thái Công: “Lễ nghi của đạo vua tôi như thế nào?”

Thái Công đáp: “Trên phải soi xét, dưới phải thâm trầm, soi xét mà không xa dân, thâm trầm mà không giấu giếm. Trên phải chu toàn, dưới phải yên định. Chu toàn là trời, yên định là đất. Có trời có đất thì thành đại lễ”.

Văn Vương hỏi: “Làm chủ như thế nào?”

Thái Công đáp: “Khoan thai mà điềm tĩnh, ôn hòa nhưng thẳng thắn. Định trước mọi việc, cho mà không tranh, khiêm nhường bình dị, lấy sự công bằng mà xử thế”.

Văn Vương hỏi: “Chủ phải nghe như thế nào?”

Thái Công đáp: “Đừng nghe xằng mà hứa, đừng thấy trái mà chống. Hứa sẽ không giữ được, chống sẽ gặp bế tắc. Núi cao trông lên không thấy được ngọn, vực sâu nhìn xuống không lường được đáy. Cái đức của bậc thánh minh là công chính,trầm tĩnh vô cùng”.

Văn Vương hỏi: “Chủ phải sáng suốt như thế nào?”

Thái Công đáp: “Khoan thai mà điềm tĩnh, ôn hòa nhưng thẳng thắn. Định trước mọi việc, cho mà không tranh, khiêm nhường bình dị, lấy sự công bằng mà xử thế”.

Văn Vương hỏi: “Chủ phải nghe như thế nào?”

Thái Công đáp: “Đừng nghe xằng mà hứa, đừng thấy trái mà chống. Hứa sẽ không giữ được, chống sẽ gặp bế tắc. Núi cao trông lên không thấy được ngon, vực sâu nhìn xuống không lường được đáy. Cái đức của bậc thánh minh là công chính, trầm tĩnh vô cùng”.

Văn Vương hỏi: “Chủ phải sáng cuốt như thế nào?”

Thái Công đáp: “Mắt quý ở chổ sáng, tai quý ở chổ rõ, lòng quý ở chổ biết. Lấy mắt của thiên hạ mà xem thì không có gì là không nhìn thấy. Lấy tai của thiên hạ mà nghe, thì không có gì là không nghe thấy. Lấy lòng của thiên hạ mà nghĩ thì không có gì là không biết. Họp dân lại mà làm thì sáng suốt, không gì có thể che lấp được.

THIÊN THỨ 5: MINH TRUYỀN.[sửa]

Văn Vương nằm trên giường bệnh, cho mời Thái Công Vọng và Thái Tử Phát đến bênh mình và nói: “ Than ôi! Trời sắp bỏ ta. Xã tắc nhà Châu sẽ thuộc về con. Nay ta muốn quốc sư nói về đạo cả để mình truyền cho con cháu về sau”.

Thái công nói: “ Đâị vương muốn hỏi điều chi?”

Văn Vương nói: “Xin nghe về đạo của tiên thánh do đâu mà ngưng trệ, do đâu mà hưng khởi”.

Thái Công đáp: “ Thấy người lành mà khinh, thời cơ đến mà nghi, biết sự trái mà vẩn làm, là ba điều khiến cho đạo phải ngưng.

Còn nhu mà tĩnh, cung mà kính, mạnh mà mềm, nhịn mà cứng, là bốn điều khiến cho đạo được hưng khởi.

Nên danh nghĩa thắng dục vọng thì thịnh, dục vọng thắng nhân nghĩa thì mất, kính thắng khinh thì tốt, khinh thắng kính thì bị diệt.”

THIÊN THỨ 6: LỤC THỦ[sửa]

Văn Vương hỏi Thái Công: “Vua là chủ của dân, thế mà cũng có khi mất là vì sao?”

Thái Công đáp: “Vì không thận trọng trong việc giao phó, làm vua có sáu điều phải giữ và ba điều quý”.

Văn Vương hỏi: “Sáu điều phải giữ là gì?”

Thái Công đáp: “Một là nhân, hai là nghĩa, ba là trung, bốn là tín, năm là dũng, sáu là mưu. Đấy là sáu điều phải giữ.”

Văn Vương hỏi:”Làm sao chọn được người có sáu điều này?”

Thái Công đáp:”Giàu có mà không phạm pháp, được quý trọng mà không kêu căng, giao việc mà không thay lòng, sử dụng mà không phải đề phòng, lâm nguy mà không sợ hãi, xử lí công việc mà không lúng túng.

Giàu sang mà không phạm pháp là nhân, cao quý mà không kêu căng là nghĩa, được giao phó mà không đổi lòng là trung, được dùng mà không đề phòng là tín, lâm nguy mà không sợ hãi là dũng, xử lí công việc mà không lúng túng là mưu.

Làm vua không có ba điều quý thì mất quyền uy.”

Văn Vương nói:”Xin hỏi về ba điều quý ấy”.

Thái Công đáp:”Đại nông, đại công, đại thương là ba điều quý.

Nhà nông canh tác trong làng thì lúa gạo đủ ăn. Người thợ hành nghề trong làng thì dụng cụ đủ dùng. Thương gia buôn bán trong làng thì hàng hoá đủ tiêu dùng. Ba điều quý này đặt yên ở mỗi nơi thì dân không lo nghĩ, không loạn trong làng, không loạn trong họ, quan không giàu hơn vua, đô thị không to hơn nước.

Sáu điều giữ được lâu dài thì vua mạnh. Ba điều quý được vuông tròn thì nước yên.”

THIÊN THỨ 7: THỦ THỔ[sửa]

Văn Vương hỏi Thái Công: “Việc giữ đất đai như thế nào?”

Thái Công đáp:”Không xa người thân, không khinh người lành, an ủi kẻ giúp việc cho mình, chế ngự lân bang ở bốn mặt.

Không mượn người nhiếp chính. Mượn người nhiếp chính sẽ mất quyền hành. Không đào hoang mà đắp gò. Không bỏ gốc mà chừa ngọn.

Mặt trời lên đỉnh đầu thì đất phải nắng, cầm dao phải cắt, cầm rìu phải chặt. Đứng bóng mà không nắng thì trái thời. Cầm dao mà không cắt thì bỏ lỡ dịp bén. Cầm rìu mà không chặt thì giặc sẽ đến nơi.

Nước chảy lâu ngày sẽ thành sông ngòi. Một đớm lửa nhỏ không dập sẽ bốc lên cao. Hai nhánh cây không phạt thì sau phải dùng đến búa to.

Nên làm vua phải lo việc giàu thịnh. Không giàu thì không có gì để làm việc nhân. Không thịnh thì không lấy gì để kết tình thân thiện. Xa người thân thì hại. Mất dan lành thì hỏng.

Không mượn nhân tài, vũ khí của người. Mượn nhân tài và vũ khí của người thì sẽ bị hại, không giũ tròn quyền cai trị của mình.”

Văn Vương hỏi: “ Thế nào là nhân nghĩa?”

Thái Công đáp: “ Kính mến dân lành, kết hợp người thân. Kính mến dân lành thì hoà thuận. Kết hợp người thân thì vui vẻ. Đấy là đầu mối của nhân nghĩa.

Đừng để người khác cướp uy vua, dựa vào sự sáng suốt, thuận với lẽ thường. Người theo thì lấy đức mà dùng, kẻ nghịch thì lấy thế mà diệt.

Không đa nghi thì thiên hạ mới hoà phục.”

THIÊN THỨ 8: THỦ QUỐC[sửa]

Văn Vương hỏi Thái Công: “Việc giữ nước như thế nào?”

Thái Công đáp: “Xin đại vương sống thanh tịnh rồi thần sẽ nói về lẽ bất dịch của trời đất, sự sinh biến của bốn mùa, đạo của bậc thánh nhân và cơ tình của dân gian”.

Vua bèn ăn chay, thanh tịnh bảy ngày, hướng về hướng Bắc lạy hai lạy rồi hỏi.

Thái Công nói: “Trời sinh ra bốn mùa, đất sinh vạn vật, trong thiên hạ có dân, bậc thánh nhân phải trông nom dẫn dắt.

Nên mùa xuân là mùa sinh nở, vạn vật tốt tươi. Mùa hạ là mùa tăng trưởng, vạn vật lớn mạnh. Mùa thu là mùa ngưng tụ, vạn vật đầy đủ. Mùa đông là mùa ẩn tàng, vạn vật yên tĩnh.

Đầy đủ thì ẩn tàng, ẩn tàng rồi lại phát ra không biết đâu là đầu, không biết đâu là đuôi. Thánh nhân so sánh để tìm ra lẽ bất dịch của trời đất.

Nên phải dùng âm mà phát, dùng dương mà hội. Khởi sướng trước trong thiên hạ rồi mới làm, làm khác với lẽ thường để hoà hợp. Không tiến mà tranh, không lui mà nhường. Giữ được như thế thì nước nhà có thể vinh quang như trời đất”.

THIÊN THỨ 9: THƯỢNG HIỀN[sửa]

Văn Vương hỏi Thái Công: “Làm vua phải nâng cái gì? Hạ cái gì? Lấy cái gì? Bỏ cái gì, cấm cái gì, ngăn cái gì?”.

Thái Công đáp: “Làm vua phải nâng người hiền, hạ kẻ dữ, lấy sự thành tín, bỏ điều gian xảo, cấm chuyện bạo tàn, ngăn việc xa hoa. Nên làm vua có sáu điều hư và bảy điều hại”.

Văn vương hỏi: “Xin nghe về lẽ ấy”.

Thái Công đáp: “Sáu điều hư là:

1. Bề tôi cất lâu đài thủy tọa to lớn, đàn hát vui chơi phương hại đến mức độ của vua.

2. Dân không lo trồng trọt, vui thú chơi bời, phạm điều luật cấm, không nghe quan dạy, phương hại đến phong hóa của vua.

3. Bề tôi cấu bè kết đảng, che lấp người hền trí, ngăn trở sự sáng suốt của chú, phương hại đến quyền hành của vua.

4. Kẻ sĩ có ý chống đối, nhờ tiết tháo thanh cao mà có uy thế, ngoài thì kết giao với chư hầu, không tôn trọng chúa, phương hại đến uy danh của vua.

5. Bề tôi khinh rẻ tước ngôi, làm điều xấu xa gây khó khăn cho thượng cấp, phương hại đến công lao của bậc cung thần.

6. Những tông phái mạnh chiếm đoạt quyền hành, áp bức người nghèo yếu, phương hại đến nghề nghiệp của dân.

Bảy điều hại là:

1. Những kẻ không trí lược quyền mưu mà được trọng thưởng tước cao nên hùng hổ coi thường, cậy vào sự rủi may. Vua phải cẩn thận, không nên cho làm tướng.

2. Những kẻ có tiếng mà không có tài, ra vào dị nghị, phô bày điều tốt che giấu việc hay, khéo lui khéo tiến. Vua phải cẩn thận không nên bàn mưu.

3. Những kẻ hình dáng ra vẻ chất phát, ăn mặc giản gị, đối đáp như không cầu danh, nói năng có vẻ không cầu lợi, là người giả dối. Vua phải cẩn thận không nên gần gũi.

4. Những kẻ đai mũ khác người, mặc đồ kì dị, hay nghe biện bác, bàn luận cao xa, ở nơi vắng vẻ, cho mình là tốt, chê bai thế tục, là người gian xảo. Vua phải cẩn thận, không nên sủng ái.

5. Những kẻ dèm pha, nịnh hót để cầu quan tước, tham lam vô độ, coi thường cái chết, thấy lợi thì làm, không nghĩ đại sự, đặt điều hư thực, nói trước mặt vua. Vua phải cẩn thận không nên tin dùng.

6. Những kẻ hành nghề chạm trổ đồ gang sắt, tuy khéo léo đẹp đẽ nhưng có hại cho việc nhà nông. Vua phải cấm đoán.

7. Những kẻ có thuật dị kì giả dối, đồng bóng tà đạo, nói điều không tốt, mê hoặc dân lành. Vua phải ngăn cấm.

Cho nên, dân không cố gắng thì không phải là dân của ta. Kẻ sĩ không thành tín thì không phải là kẻ sĩ của ta. Tướng quốc mà không biết làm cho nước giàu dân mạnh, điều hòa âm dương để làm yên lòng vua, sửa sai quần thần, dùng người tài danh, khiến cho muôn dân vui vẻ, thì không phải là tướng quốc của ta.

Đạo làm vua như đầu rồng, ngựa trên cao để nhìn xa, quan sát kỹ để nghe rõ, chỉ rõ lộ trình như trời cao không thể đến, như vực sâu không thể đo.

Cho nên điều đáng giận mà không giận thì gian thần lộng hành, đáng giết mà không giết thì giặc lớn nổi lên, quân đội mà không tăng cường thì nước địch sẽ mạnh hơn”.

Văn Vương nói: “Thật là hay lắm”.

THIÊN THỨ 10: CỬ HIỀN[sửa]

Văn Vương hỏi Thái Công: “Vua lo cử người hiền mà không nên việc gì cả, khiến đời càng thêm loạn đến nỗi bị nguy vong là vì sao?”

Thái Công đáp: “Cử người hiền mà không dùng thì chỉ có tiếng là cử hiền mà không thực sự dùng hiền”.

Văn vương hỏi: “Lỗi đó tại ai?”

Thái Công đáp: “Lỗi đó là vì vua chỉ thích dùng người theo lời khen ở đời, nên không được người hiền chân chính”.

Văn Vương hỏi: “Tại sao vậy?”

Thái Công đáp: “ Vua thấy người đời khen thì cho là người hiền, thấy người đời chê thì cho là không hiền. Nên nhiều người phe đảng ủng hộ thì có thể tiến thân, người ít phê đảng ủng hộ thì phải đưa về. Do đó mà bọn gian tà liên kết để che giấu người hiền.

Do đó trung thần vô tội mà bị chết, gian thần nhờ hư danh mà được tước vị, nên đời càng loạn, thì nước không tránh khỏi cảnh nguy vong”.

Văn Vương hỏi: “Cử người hiền như thế nào?”

Thái Công đáp: “Phân định chức vụ tướng quân và tướng quốc rồi chọn người hiền ra làm quan bằng cách thi tuyển danh tài, tài phải xứng với danh, danh phải xứng với tài thì mới đúng là cử người hiền.”

THIÊN THỨ 11: THƯỞNG PHẠT[sửa]

Văn Vương hỏi Thái Công: “Thưởng cốt để khen, phạt cốt để ngăn. Nay trẫm muốn thưởng một người để khuyên trăm người, phạt một người để răn dân chúng thì phải làm như thế nào?”

Thái Công đáp: “Thưởng quý ở chữ tín, phạt quý ở chữ đúng. Thưởng cho đúng công, phạt cho đúng tội, để cho mọi người nghe thấy, thì những người không nghe thấy không khỏi không thầm phục.

Lòng thành còn thấu đến trời đất, thông đến thần linh, huống hồ là đối với con người”.

THIÊN THỨ 12: BINH ĐẠO[sửa]

Vũ Vương hỏi Thái Công: “Đạo dùng binh như thế nào?”

Thái Công đáp: “Phạm đạo dùng binh không gì hơn một. Nắm vững được một, thì có thể từ đó tung hoành.

Một lấy đạo làm gốc, lấy thân biến hóa làm ngọn, tùy thời cơ mà sử dụng, tùy thời thế mà thể hiện, do vua mà hình thành. Nên bậc thánh vương gọi việc binh là việc hệ trọng bất đắt dĩ mới dùng đến.


VÕ THAO (武韬): DỤNG BINH[sửa]

VÕ THAU (BINH PHÁP LỤC THAO).

Thiên thứ 1: PHÁT KHẢI[sửa]

Văn Vương ở đất Phong, mời Thái Công đến mà nói rằng: “ Than ôi, vua Thương tàn ác vô cùng, giết hại người vô tội. Khanh đang có cách gì để giúp đỡ dân đang đau khổ chăng?”

Thái Công đáp: “Vua nêm sửa đức để người hiền cảm phục, ban ân để dân thấy đạo trời.

Không có tai ương thì không thể khởi xướng đạo trời. Không có tai họa thì không thể toan tính đạo người.

Phải lấy thiên tai và nhân họa thì mới mưu được việc lớn. Phải thấy được phải trái thì mới biết được lòng người. Phải thấy bên ngoài và bên trong thì mới rõ được ý người, phải thấy chỗ sơ hở và chỗ thân thì mới hiểu được tính người.

Bây giờ theo đạo mà làm, đạo sẽ được thi hành, theo cửa mà vào, theo cửa sẽ được mở cho vào. Đặt ra việc lễ, lễ nghi sẽ thành. Đấu tranh bằng sức mạnh, sức mạnh sẽ chiến thắng.

Toàn thắng mà không phải đánh nhau, không cần lập đại binh, cảm thông đến quỷ thần. Huyền diệu thay!

Đối với người, cùng bị bệnh thì cứu nhau, cùng bị thương thì dựa vào nhau, cùng bị ghét thì giúp nhau, cùng thích thì hợp nhau. Nên không cần giáp binh mà vẫn thắng. Không cần xung đột, mà vẫn tiến công, không cần hào lũy mà vẫn cố thủ.

Người có trí lớn không cần đến trí, có mưu cao không cần đến mưu, có dũng khí không cần đến dũng, có lợi to không cần đến lợi.

Làm lợi cho thiên hạ thì thiên hạ chào đón, làm hại cho thiên hạ thì thiên hạ chối từ. Thiên hạ không phải của một người, thiên hạ là của cả thiên hạ. Chiếm lấy thiện hạ như việc săn thú, mà mọi người đều tin rằng mình sẽ được chia phần thịt, cũng như ngồi chung thuyền mà sang sông, qua được thì cũng có lối đi, mà thất bại thì cùng bị hại, nên tất cả đều chờ đón mà không chối từ.

Không lấy của dân là chiếm được dân, không lấy của nước là chiếm được nước, không lấy của thiên hạ là chiếm được thiên hạ.

Không lấy của dân thì dân làm lợi cho mình, không lấy của nước thì nước làm lợi cho mình. Không lấy của thiện hạ thì thiên hạ làm lợi cho mình.

Cho nên đạo hay ở chỗ không thể thấy, sự hay ở chỗ không thể nghe, thắng hay ở không thể biết. Huyền diệu thay!

Chim cắt sắp bắt mồi thì ngưng bay thu cánh, thú dữ sắp vồ thì nép mình cụp tai, thánh nhân sắp hành động thì có vẻ dại khờ.

Nay ở nước Thương, dân chúng ngờ vực lẫn nhau, tinh thần hoang mang, đời sống khổ cực vô cùng. Đấy là cái điềm mất nước.

Ta nhìn thấy ngoài đồng cỏ nhiều hơn lúa, dân chúng thì gian nhiều hơn ngay, quan lại thì tham tàn bạo ngược, bất chấp cả luật pháp trên dưới đều không giác ngộ. Đấy là lúc mất nước.

Đại minh phát ra thì muôn vật đều sáng. Đại nghĩa phát ra thì muôn vật đều lợi. Đại binh phát ra thì muôn vật đều phục tùng.

Vĩ đại thay! Cái đức của thánh nhân! chỉ nghe chỉ thấy cũng đủ vu lòng”.

Thiên thứ 2: VĂN KHẢI[sửa]

Văn Vương hỏi Thái Công: “Thánh nhân phải giữ điều gì?”

Thái Công đáp: “Phải lo nghĩ, xót xa, quan tâm đến vạn vật. Xót xa lo nghĩ, quan tâm thì vạn vật sẽ hết lòng vì mình. Chính sách ban ra, ai cũng biết. Thời cơ chưa đến, ai cũng biết lúc đổi thay. Thánh nhân giữ điều này mà cảm hóa vạn vật.

Phàm cái gì đến chỗ cùng tận thì trở lại lúc ban đầu. Muốn tốt muốn nhàn thì khéo léo mà cầu mong. Cầu mong mà được thì không thể không giữ lấy, đã giữ lấy thì không thể không hành động, đã hành động thì không nên khoe mình.

Trời đất không khoe mình nên tồn tại lâu dài. Thánh nhân không khoe mình nên nên tên tuổi rạng rỡ.

Xưa Thánh nhân tập hơp người lại thành nhà, tập hợp nhà lại thành nước, hợp nước lại thành thiên hạ, phong hầu cho người hiền, lập thành vạn quốc, gọi là đại kỉ.

Đặt ra chính sách, dạy dỗ, dựa theo phong tục của dân, sửa điều trái thành ngay, thay hình đổi dạng muôn nước đều thông, khắp nơi đều vui vẻ, mọi người đều thương vua, gọi là đại thịnh.

Ôi, Thánh nhân lo ổn định, hiền nhân lo chỉnh đốn, kẻ ngu không thể chỉnh nên tranh chấp với người trên, nên có nhiều hình phạt, hình phạt nhiều thì dân lo lắng, dân lo lắng nên lưu vong khắp nơi, trên dưới sống không yên, cứ thế kéo dài từ đời này sang đời kia gọi là đại thất.

Người trong thiên hạ ví như dòng nước chảy, hễ ngăn thì dừng, mở thì chảy, yên thì trong.

Thần diệu thay! Thánh nhân thấy được cái khởi đầu thì biết được sự kết thúc”.

Văn Vương hỏi: “Làm sao yên?”

Thái Công đáp: “Trời có hình tượng của trời, dân có đời sống bình thường, cùng dân chung sống thì thiên hạ yên. Xưa bậc minh quân noi theo đó mà cảm hóa dân, dân được cảm hóa thì tuân theo chính sách, nên làm nên sự nghiệp, giàu có. Đấy là cái đức của thánh nhân”.

Văn Vương nói: “Lời nói của người rất hợp với lòng ta vậy. Ta sẽ đêm ngày ghi nhớ không quên đển dùng làm đạo”.

Thiên thứ 3: VĂN PHẠT=[sửa]

Văn Vương hỏi Thái Công: “ Văn phạt là thế nào?”

Thái Công đáp: “Văn phạt có mười hai điều:

+ Điều 1: Tùy sở thích của người mà chiếu theo ý họ, họ sẽ sinh lòng kiêu hãnh, sẽ hay gây sự, ta nhân dịp đó mà trừ đi.

+ Điều 2: Thân thiện với người họ yêu quý để chia xẻ uy quyền, một người mà hai lòng nội bộ ắt suy, trong triều không có trung thần thì xã tắc phải nguy.

+ Điều 3: Mua chuộc những người thân cận để gây cảm tình. Thân ở trong mà lòng ở ngoài thì nước sẽ bị hại.

+ Điều 4: Cho họ hưởng lạc để làm tan ý chí, biếu nhiều châu ngọc, hiến dâng gái đẹp để mua vui, nói năng khiêm nhường thuận với lẽ phải thì họ sẽ không tranh, gian kế ấy sẽ thành.

+ Điều 5: Đối với trung thần không được hối lộ, vờ lưu giữ họ, khiến cấp trên không nghi họ mà thay ngay kẻ khác. Ta đối với họ thành thật, thân mật và tin tưởng. Vua sẽ triệu họ về mà nghiêm trị. Khi đó ta có thể mưu việc lấy nước.

+ Điều 6: Mua chuộc bên trong, li gián bên ngoài, khiến cho quan giỏi giúp bên ngoài, địch đánh vào trong thì họ không tránh khỏi mất nước.

+ Điều 7: Muốn nắm được lòng người thì phải biếu xén thật nhiều, thu phục những người thân cận trung tín với vua, chỉ ra cái lợi khiến họ lơ là công việc mà gây nên sự suy yếu trong nước.

+ Điều 8: Hối lộ đò quý báo rồi nhân đó cùng mưu tính công việc. Mưu có lợi thì họ phải tin, gọi là trung thân (đã thân lại thêm thân), thân nhiều thì ta có thể dùng. Ở trong nước mà lòng hướng ngoại thì nước sẽ đại bại.

+ Điều 9: Tôn cho họ một danh vị mà không hại đến bản thân họ. Biểu dương thế lực cho họ tin tưởng mà sinh lòng tôn kính. Trước hết làm cho họ được vinh quang, vờ coi họ như thánh thần thì có thể lấy được nước.

+ Điều 10: Hạ mình cho họ tin để biết rõ tình hình, tuỳ theo ý họ mà ứng biến, như cùng chung sống với nhau, lúc đã được lòng họ thì từ từ mà thu phục dân chúng, chờ khi thời cơ đến là lúc Trời diệt họ.

+ Điều 11: Dùng đạo để che lấp. Từ quan đến dân không ai là không thích giàu sang phú quý, ghét sự chết chóc và tội lỗi. Ta tỏ ra cao quý rồi lén đem báo vật thu phục hào kiệt. Bên trong chất chứa nhiều mà ngoài thì ra vẻ thiếu thốn. Ngầm kết nạp tu sĩ để tính kế bàn mưu, thu dụng dũng sĩ để nâng cao uy thế. Giàu sang sung túc thì vây cánh càng đông, đồ đảng càng nhiều. Đấy là bưng bít. Có nước mà bị bưng bít thì làm sao gọi là có nước?

+ Điều 12: Nuôi dưỡng loạn thần để mê hoặc vua, hiến nhạc dâm, gái đẹp để quyến rũ vua, nhường chó tốt ngựa hay để giải khuây, cho quyền thế lớn để dụ dỗ. Khi đã kiểm soát được trên thì cùng thiên hạ mưu đồ việc lớn.

Đầy đủ mười hai điều này thì việc binh sẽ thành. Đấy là trên xem trời, dưới xem đất, điều kiện xuất hiện thì có thể đánh chiếm”.

Thiên thứ 4: THUẬN KHẢI[sửa]

Văn Vương hỏi Thái Công: “Làm thế nào để trị thiên hạ”.

Thái Công đáp: “Lượng phải bao trùm thiên hạ rồi sau mới chứa được thiên hạ.

Tín phải bao trùm thiên hạ rồi sau mới giữ được thiên hạ.

Quyền phải bao trùm thiên hạ rồi sau mới không mất thiên hạ.

Làm mà không nghi thì vận trời không thể rồi, thời thế không thể thay đổi.

Sáu điều này có đầy đủ thì mới cai trị được thiên hạ.

Cho nên có lợi cho thiên hạ thì thiên hạ chào đón, có hại cho thiên hạ thì thiên hạ chối từ.

Cho thiên hạ sống thì thiên hạ ghi ân. Giết hại thiên hạ thì thiên hạ làm giặc.

Soi thấu thiên hạ thì thiên hạ cảm thông. Đưa thiên hạ đến chổ cùng cực thì thiên hạ thì thiên hạ oán thù.

Làm cho thiên hạ yên thì thiên hạ tin cậy. Làm cho thiên hạ nguy thì thiên hạ hại mình.

Thiên hạ không phải của một người, nhưng người có “ĐẠO” thì nắm được cả thiên hạ”.

Thiên thứ 5: TAM NGHI[sửa]

Võ Vương hỏi Thái Công: “Trẫm muốn lập nên nghiệp lớn, nhưng có ba điều nghi ngại: sợ sức mình không thể đánh nước mạnh, không li gián được người thân, không phân chia được dân chúng. Vậy phải làm thế nào?”

Thái Công đáp: “Phải mưu tính cẩn thận và dùng nhiều tiền của.

Muốn đánh nước mạnh, phải dưỡng họ cho mạnh, giúp học khuếch trương. Mạnh quá phải gãy, trương quá phải khuyết.

Dùng nước mạnh đánh nước mạnh. Dùng người thân li gián người thân.

Dùng dân chúng phân chia dân chúng.

Phàm đạo dùng mưu, quý ở điểm chu đáo. Tùy sự mà địch, lấy lợi mà nhử thì họ sẽ sinh lòng tranh chấp.

Muốn chia rẽ nội bộ họ thì tùy theo sở thích của họ mà làm cho người họ yêu quý, cho điều họ muốn,vạch rõ điều lợi, rồi nhân đó mà làm họ chia rẽ nhau. Họ thấy lợi thì vui, nhưng đừng cho họ thỏa mãn. Khi gây được hiềm nghi thì dừng lại.

Về phép tấn công, trước phải che mắt địch rồi mới đánh vào chỗ mạnh. Diệt điểm lớn của địch, tránh làm hại cho dân.

Dùng sắc quyến họ mê, dùng lợi nhử họ ăn, dùng hương vị quyến rũ họ, dùng ca nhạc giúp vui. Đã xa người thân ắt phải xa dân.

Đừng cho họ biết mưu kế, cũng đừng để họ biết ý định của mình, ngầm giúp dân để thu phục nhân tâm thì có thể thành công.

Ban ân cho dân thì đừng tiếc của. Dân như trâu, ngựa, phải chăm nom nuôi nấng, nghe và thương mến họ.

Lấy lòng mở mang trí tuệ, dùng trí tìm của, lấy của thu dân, dùng dân đón người hiền.

Đón được người hiền thì làm vua thiên hạ”.

LONG THAO (龙韬): TUYỂN TƯỚNG[sửa]

Thiên thứ nhất: VƯƠNG DỰC[sửa]

Võ Vương hỏi Thái Công: “Vua mang quận đi đánh phải có tay chân vây cánh để tạo nên uy thần, muốn vậy thì phải làm thế nào?”

Thái Công đáp: “Phàm cất quân đi đánh, thì dùng tướng làm mệnh. Mệnh cốt ở chổ thông suốt, chứ không theo một phép nhất định. Tùy theo khả năng mà giao phó nhiệm vụ, tận dụng sở trường của từng người, lấy sự tùy cơ ứng biến làm nguyên tắc.

Nên tướng có 72 người làm tay chân vây cánh, ứng theo số trời định để nghiên cứu phương pháp, hiểu rõ nguyên lí, đủ tài hay thuật lạ, thì mọi việc đều xong cả”.

Võ Vương nói: “Xin hỏi về từng mục”.

Thái Công đáp: “Tâm của một người, chuyên về mưu lược, đối phó cấp thời, diệt trừ biến loạn, nắm trọn mưu kế để bảo toàn tính mạng của dân.

+ Mưu sĩ: 5 người, lo sự an nguy, tính việc chưa xảy đến, xem xét đức hạnh tài năng, thưởng phạt nghiêm minh, bổ nhiệm quan tước, quyết đoán sự hiềm nghi, định việc nên hay đừng.

+ Thiên văn: 3 người, chuyên xem tinh tú, khí hậu dự đoán ngày giờ, quan sát sự linh ứng, kiểm chứng thiên tai chuyện lạ, biết rõ lòng người và thời cơ tiến lui.

+ Địa lợi: 3 người, lo việc tiến dừng của ba quân, tình thế lợi hại, tin tức gần xa, dễ hay khó, sông núi cách trở ra sao, để không mất địa lợi.

+ Binh pháp: 9 người, nghiên cứu những điểm khác nhau, hành động thành bại, huấn luyện ba quân, chỉ ra những điều sai của binh pháp.

+ Thông lương: 4 người, lo việc ăn uống, tích trữ lương thực, chuyển vận ngũ cốc, khiến ba quân không bị thiếu thốn.

+ Phần uy: 4 người, chuyên chọn người tài đức, nghiên cứu binh lược, đánh như gió thổi, sấm vang, khiến địch không biết đến từ đâu.

+ Phục cổ kì: 3 người lo việc dùng cờ trống, làm sáng tai mắt ba quân,mạo chứng thu ấn tín, giả hiệu lệnh đối phương, đi lại trong đêm tối xuất nhập như thần:

+ Cố vấn: 4 người, đảm nhiệm công tác nặng nề, sửa hào đắp lũy, phòng ngự địch quân.

+ Thông tài: 3 người, chuyên tìm chổ sơ sót, sửa chữa lỗi lầm, tiếp đãi tân khách, bàn bạc chuyện trò giải quyết việc rắc rối.

+ Quyền sĩ: 3 người, chuyên làm điều quỹ quyệt, đặt chuyện dị kì, biến trá vô song, không ai biết được.

+ Nhĩ mục: 7 người, đi lại nghe ngóng tin tức, quan sát biến động, xem xét công việc bốn phương và tình hình trong quân ngũ.

+ Trảo nha: 5 người, chuyên nâng cao uy vũ khích lệ ba quân, khiến họ hăng hái không ngại xông pha chốn hiểm nguy.

+ Vũ dực: 4 người, chuyên tuyên truyền danh tiếng, kinh động bốn cõi, làm nao núng lòng địch.

+ Du sĩ: 8 người, chờ dịp có âm mưu gian biến móc nối cảm tình, xét ý hướng địch để làm gián điệp

+ Thuật sĩ: 2 người, lợi dụng quỷ thần làm điều giả dối để mê hoặc lòng dân.

+ Phương sĩ: 2 người, rành về thuốc men, trị lành bệnh và thương tích.

+ Pháp toán: 2 người, lo việc kế toán trong ba quân, xuất nhập vật dụng, doanh trại, lương thực, tiền của”.

Thiên thứ hai: LUẬN TƯỚNG[sửa]

   Võ Vương hỏi Thái Công: “Phép luận tướng như thế nào?”

Thái Công đáp: “Tướng có năm điều hay và mười điều lợi”.

Võ Vương hỏi: “Xin hỏi về từng mục”.

Thái Công đáp: “Năm điều hay là dũng, trí, nhân, tín, trung.

+ Dũng thì không thể xâm phạm.

+ Trí thì không thể rối loạn.

+ Nhân thì hay thương người.

+ Tín thì không dối trá.

+ Trung thì không ở hai lòng.

Mười điều lợi là:

Dũng mà coi thường cái chết. Gấp mà trong lòng vội vã. Tham mà ham lời. Nhân mà không nỡ giết người. Trí mà nhút nhát. Tín mà hay tin người. Liêm mà không thương người. Trí mà chậm chạp. Cương mà chỉ theo ý mình. Nhu mà hay nghe người.

Dũng mà coi thường cái chết thì bị hại. Tham mà ham lợi thì sơ suất. Nhân mà không nỡ giết người thì sinh phiền nhiễu. Trí mà nhút nhát thì bị khốn đốn. Tín mà hay tin người thì bị lừa gạt. Liêm mà không thương người thì bị khinh nhờn. Trí mà chậm chạp thì bị đánh úp. Cương mà chỉ theo ý mình thì thành tai hại. Nhu mà hay nghe người thì bị chèn ép.

Nên việc binh là việc trọng đại, là đạo mất còn của một nước. Mệnh ở trong tay của người tướng nên tướng là người phò tá nước nhà mà xưa kia các bật tiên vương vốn rất coi trọng. Khi phong người làm tướng không thể không xét kỹ.

Cho nên thường nói rằng, binh không thắng hai lần, cũng không thua hai lần, không mất nước thì cũng bị mất tướng tàn quân”.

Võ Vương nói: “Thật là hay vậy”.

Thiên thứ ba: TUYỂN TƯỚNG[sửa]

  Võ Vương hỏi Thái Công: “Khi vua cử binh, muốn tuyển chọn anh hùng, làm sao phân biệt tài cao thấp của kẻ sĩ?”.

Thái Công đáp: “Diện mạo của kẻ sĩ thường không giống với bên trong”.

– Có người nghiêng mà không hiền.

– Có người hiền mà trộm cắp.

– Có người cung kính bề ngoài mà trong lòng khinh người.

– Có người tỏ ra liêm khiết mà không thật thà.

– Có người chung thủy mà bất nghĩa.

– Có người nồng hậu mà không thành tâm.

– Có người giỏi mưu mà không quả quyết.

– Có người quả cảm mà không tài năng.

– Có người thật thà mà không tin được.

– Có người hốt hoảng mà không trung trực.

– Có người quỷ quyệt mà làm nên công.

– Có người ngoài dạn mà trong nhát.

– Có người trang nghiêm mà dễ dãi.

– Có người quát tháo mà bình tĩnh.

– Có người dáng xấu xa, nhưng khi ra ngoài thì ngang dọc vẫy vùng, không có gì là không làm được. Thiên hạ khinh thường mà thánh nhân quý trọng. Người thường không thể biết nếu không là bật cao minh thì không nhìn thấy điều này. Đấy là điện mạo kẻ sĩ, không giống với suy nghĩ bên trong.

Võ Vương hỏi: “Làm sao mà biết được?

Thái Công đáp: “Có tám cách để biết”

– Một là dùng lời mà hỏi để xem xét cách ăn nói.

– Hai là cố tình trách móc để xem sự đổi thay.

– Ba là cho biết âm mưu để xem lòng thành thật.

– Bốn là thăm hỏi rõ ràng để xem đức độ.

– Năm là sai khiến bằng tiền để xem tính thanh liêm.

– Sáu là thử sắc đẹp để xem sự trinh khiết.

– Bảy là cho biết khó khăn để xem lòng can đảm.

– Tám là chuốc rượu cho say để xem thái độ.

Thử bằng tám cách này thì phân biệt được kẻ ngu người hiền”.

Thiên thứ bốn : LẬP TƯỚNG[sửa]

Võ Vương hỏi Thái Công: “Đạo lập tướng như thế nào?”.

Thái Công đáp: “Khi đất nước lâm nguy thì vua rời khỏi chính điện, mời vị tướng vào mà dụ rằng “Xã tắc yên nguy, đều do nơi tướng quân. Nay có nước Mỗ không thuần phục, mong tướng quân đem binh đối phó”.

Khi tướng đã nhận mệnh, vua sai quan Thái sư xem xét thiên văn, ăn chay ba hôm nơi Thái miếu, nghiên cứu linh quy, chọn ngày tốt để trao búa rìu.

Vua vào trong miếu, đứng ở cửa bắc, cầm lưỡi búa trao cho tướng mà nói rằng ‘Từ nay trở đi từ mặt đất đến vực thẳm đều do tướng quân chế ngự. Thấy địch yếu thì tiến, địch mạnh thì dừng, không vì quân đông mà khinh địch, chớ vì nhận mệnh mà phải chết. Đừng cho mình cao quý mà khinh người, không độc đoán mà phản bội lòng dân, cũng không nên cho lời của mình là đúng. Quân chưa ngồi thì không ngồi, quân chưa ăn thì không ăn, cùng chung cảnh ấm no đói rét, như thế thì sĩ tốt sẽ chiến đấu quên mình”.

Tướng nhận mệnh xong bái tạ ân vua mà đáp rằng: “Thần nghe nói, nước không thể trị từ bên ngoài, quân không thể trị từ bên trong. Kẻ có hai lòng không thể thờ vua, người nhụt chí không thể đánh giặc. Nay thần đã chịu mệnh vua, nắm trọn quyền uy lãnh đạo, thần không dám tham sống trở về, xin vua hạ lệnh cho thần, nếu vua không cho phép thì thần không dám làm tướng”.

Vua nhận lời, tướng bèn cáo biệt ra đi. Mọi việc trong quân ngũ đều không theo lệnh vua, mà tuân theo lệnh tướng. Gặp địch chỉ quyết chiến, chứ không có hai lòng.

Như vậy thì trên không có trời, dưới không có đất, trước không có địch, sau không có vua. Nên bậc tài trí mới có công giúp vua, người vũ dũng mới gắng sức dẹp giặc. Khí thế cao vút tận mây xanh, tiến nhanh như ngựa phi nước đại, quân chưa giao chiến mà địch đã đầu hàng.

Ngoài thì chiến thắng địch, trong lập được công to, quan được thăng cấp, quân được ban thưởng, trăm họ vui mừng, không còn gặp cảnh tai ương. Do đó mà bốn mùa mưa thuận gió hoà, ngũ cốc phong phú, xã tắc yên vui”.

Võ Vương nói: “Thật là hay lắm”.

Thiên thứ năm : TƯỚNG UY[sửa]

Võ Vương hỏi Thái Công: “Tướng lấy gì làm uy, lấy gì làm sáng, lấy gì làm răn mà lệnh được thi hành?”

Thái Công đáp: “Tướng lấy việc diệt lớn làm uy, thưởng nhỏ làm sáng, hình phạt làm răn mà lệnh được thi hành.

Nên giết một người mà ba quân run sợ thì phải giết. Thưởng một người mà vạn người đều vui thì nên thưởng. Việc giết quý ở chỗ không kể người cấp to, việc thưởng quý ở chỗ kể cả người cấp nhỏ. Giết đến quan đang có địa vị cao quý là phạt đến cấp cao nhất. Thưởng đến kẻ chăn trâu tắm ngựa là thưởng đến tận kẻ dưới.

Phạt đến kẻ trên cùng, thưởng đến tận kẻ dưới là những việc làm tăng thêm uy quyền của người tướng vậy”.

Thiên thứ sáu: LỆ QUÂN[sửa]

Võ Vương hỏi Thái Công: “Trẫm muốn khiến cho ba quân, lúc công thành thì tranh nhau lên, khi dã chiến thì tranh nhau tiến, nghe chiêng khua mà giận, nghe trống đánh mà mừng thì phải làm thế nào?”

Thái Công đáp: “Tướng có ba điều cần biết”.

Võ Vương hỏi: “Xin hỏi từng mục”.

Thái Công đáp: “Tướng mà mùa hè không cần quạt, mùa đông không mặc áo lông cừu ,gặp mưa không che lọng, gọi là Lễ Tướng. Làm tướng mà thân không giữ lễ, thì không biết được sự nóng rét của sĩ tốt.

Ra chốn hiểm trở, vào nơi sình lầy, tướng phải đi trước, gọi là Lực Tướng. Làm tướng mà bản thân không lao lực thì không biết được sự cực khổ của sĩ tốt.

Quân đã yên nghỉ, tướng mới vào nhà. Cơm đều chín cả, tướng mới đến ăn. Quân không đốt lửa, tướng cũng khôgn đốt. Gọi là Chỉ dục Tướng. Làm Tướng mà không nếm qua cảnh cực khổ thì không biết được sự đói lo của sĩ tốt.

Tướng cùng sĩ tốt chung cảnh nóng rét, cực khổ, đói no thì khi nghe trống đánh ba quân đều mừng, nghe chiêng khua ba quân đều giận, gặp thành cao hào sâu, tên bay đá ném vẫn tranh nhau lên, đao kiếm giáp nhau vẫn tranh nhau tiến, không phải là họ thích bị thương vong, mà vì tướng biết đến cảnh ấm no đói rét, hiểu rõ sự lao khổ của họ”.

Thiên thứ bảy: ÂM PHÙ[sửa]

Võ Vương hỏi Thái Công: Đem quân vào sâu đất chư hầu, nếu trong ba quân chợt có việc hoãn gấp có thể có lợi, có thể có hại. Vua với tướng muốn thông báo nhau từ gần đến xa, tiếp ứng nhau từ trong ra ngoài, cung cấp nhu cầu cho ba quân thì phải làm thế nào?”.

Thái Công đáp: “Vua và tướng có thứ âm phù: (ám hiệu)

– Thứ đại thắng dài một thước

– Thứ giết quân bắt tướng dài 9 tấc

– Thứ chiếm đất hạ thành dài 8 tấc

– Thứ báo tin đuổi địch dài 7 tấc

– Thứ răn quân kiên thủ dài 6 tấc

– Thứ xin lương thêm binh dài 5 tấc

– Thứ quân thua tướng mất dài 4 tấc

– Thứ bất lợi, chết quân dài 3 tấc

Những người nhận lệnh thi hành âm phù cần phải thận trọng, nếu việc trong âm binh bị tiếc lộ thì người nghe kẻ nói đều bị giết.

Vua và tướng dùng tám thứ âm phù này để bí mật thông báo tin tức với nhau chứ không dùng lời nói câu văn.

Đấy là một thuật để trong ngoài hiểu nhau, nên dù địch có thánh trí cũng không thể biết được”.

Thiên thứ tám: ÂM THƯ[sửa]

Võ Vương hỏi Thái Công: “Đem quân vào sâu đất chư hầu, vua và tướng muốn họp quân lại để hành sự, biến hoá vô cùng, hay mưu tính việc lợi trong khi địch bất trắc, như thế công việc rất nhiều mà âm phù không diễn tả được, đôi bên lại xa cách, không thể dùng lời nói thông tin với nhau, thì phải làm thế nào?”.

Thái Công đáp: “Khi có chuyện mất hay toan tính việc lớn thì nên dùng thư mà không dùng phù. Vua viết thư cho tướng, tướng viết thư hỏi vua. Thư từ đều dùng cách hợp nhất phân chia, ba người phát đưa mà chỉ một người biết, nghĩa là lấy ý trong thư chia ra làm ba phần, giao cho ba người mang đi, nên không ai rõ được sự tình. Như thế gọi là âm thư, dù địch có thánh trí cũng không thể biết được”.

Thiên thứ chín: QUÂN THẾ[sửa]

Võ Vương hỏi Thái Công: “Phép công phạt như thế nào?”

Thái Công đáp: “Phải nhân sự biến động của địch giữa hai trận đánh mà phát ra thế kì chính vô tận.

Cho nên việc đến không cần bàn, dùng binh không cần bàn nhiều và ít có thời gian, binh đã dùng thì hình dáng không thể lấy nó, chợt đi chợt đến, không ai chế ngự được. Đó mới là biết cách dùng binh.

Phàm việc binh hễ nghe thì bàn bạc, thấy thì mưu đồ, biết liệu chỗ khó khăn, phân biệt việc nguy hiểm. Nên người thiện chiến không chờ đến lúc dàn quân, kẻ khéo trị đã biết diệt trừ khi hoạ chưa xảy đến.

Người giỏi thắng địch, thắng từ lúc vô hình, khi ra trận không được giao chiến. Cho nên tranh thắng nơi trận mạc không phải là tướng giỏi, phòng bị khi đã mất không phải là bậc thánh, dạy dỗ như mọi người không phải là bậc thánh, trị giống như mọi người không phải là bậc quốc sư, tài nghệ như mọi người không phải là bậc quốc công.

Không gì lớn hơn là việc đã thành. Không gì khéo hơn là bình tĩnh hành động, không gì hay hơn là bất ngờ. Mưu không gì tốt hơn là kín đáo. Người thắng trước là kẻ đã thấy chổ yếu của địch rồi mới đánh, nên chỉ làm một nửa mà hiệu suất gấp bội.

Thánh nhân xem sự biến động của trời đất mà biết được giềng mối, xét đạo âm dương mà tuỳ thế tuỳ thời. Trời đất đầy vơi là lẽ thường, vạn vật sống chết là do hình tượng của trời đất, nên chưa thấy hình dạng mà đánh thì dù đông vẫn thua.

Người thiện chiến, sẵn có tinh thần bất khuất, thấy thắng thì khởi binh, không thắng thì đừng, nên mới nói rằng không sợ hãi mà cũng không do dự. Trong phép dùng binh, do dự là một điều tai hại nhất. Tai vạ trong ba quân, cũng không có gì hơn là hồ nghi.

Người thiện chiến, thấy lợi không thể mất, gặp thời không hồ nghi, vì để mất lợi thì sau phải gánh lấy tai ương.

Nên người có trí, tuỳ thời mà không bỏ lợi. Kẻ khoé tính, cương quyết mà không phân vân, như sấm không kịp che tai, chớp nhanh không kịp nhắm mắt, đi mau như sợ hãi, dùng binh như điên cuồng, ai ngăn thì phải vỡ, ai gần thì phải chết, không ai có thể chống cự.

Tường tướng không nói mà giữ được là thần, không nhìn mà thấy được là minh (sáng). Nên biết đạo thần minh thì trong rừng không có giặc hoành hành, trước mắt không có nước đối lập”.

Thiên thứ mười: KÌ BINH[sửa]

Võ Vương hỏi Thái Công: “Điều quan trọng trong phép dùng binh như thế nào?”

Thái Công đáp: “Xưa kia, những người thiện chiến không phải đánh ở trên trời, cũng không phải đánh ở dưới đất, mọi việc thành bại đều do “thế” mà ra. Được thế thì thịnh, thất thế thì mất.

Thường giữa hai trận đánh, ta dàn quân cởi giáp cho sĩ tốt nghỉ ngơi, thi hành kế hoạch của trận đánh.

Đóng nơi cây cỏ rậm rạp để có chỗ ẩn nấp, nơi hang sâu hiểm trở để ngăn xe chống kị binh, nơi núi rừng quan ải để dùng ít đánh nhiều, nơi ao đầm âm u để che giấu hình dáng, nơi đồng trống quang đãng để dùng sức tranh hùng.

Nhanh như tên bay, đạn bắn để phá chỗ tinh vi của địch, bày mưu ẩn núp, đem binh dẫn dụ để phá quân, bắt tướng. Chia tư xẻ năm để phá thế vuông tròn. Khiến địch sợ hãi để dùng một đánh mười. Thừa lúc địch mệt để lấy mười đánh trăm.

Dùng kỹ thuật để vượt sông ngòi. Nỏ cứng giáo dài để đánh thuỷ chiến. Do thám quan ải, đột nhập nhanh chóng để chiếm ấp hạ thành. Đánh trống ầm ĩ để dùng kế lạ. Mưa to gió lớn để đánh trước chặn sau. Giả làm sứ địch để chặn đường tải lương, giả mạo hiệu lệnh, ăn mặc như địch để phòng khi chạy trốn.

Lấy nghĩa mà đánh để khích quân thắng địch. Thăng chức trọng thưởng để khiến quân tuân hành. Nghiêm hình trọng phạt để răn quân lười biếng. Khi vui khi giận, lúc lấy lúc cho, khi văn khi võ, lúc nhanh lúc chậm để điều hoà ba quân trị người dưới trướng.

Ở nơi cao rộng để tiện việc phòng thủ, giữa chốn hiểm nguy để dễ bè củng cố, rừng núi rậm rạp để che dấu sự đi lại, luỹ cao hào sâu lương đầy để cầm cự lâu dài.

Cho nên không biết mưu kế tấn công thì không thể nói là vô địch, không biết cách phân chia thay đổi thì không thể nói là li kì, không giỏi cách trị loạn thì không thể nói là ứng biến.

Nên mới nói rằng: “Tướng không có nhân thì ba quân không thân, tướng không có dũng thì ba quân không tinh nhuệ, tướng không có trí thì ba quân nghi ngờ, tướng không sáng suốt thì ba quân nghiêng ngửa, tướng không tinh vi thì ba quân lơ là, tướng không hay răn dạy thì ba quân không phòng bị, tướng không kiên quyết thì ba quân bê trễ.

Cho nên tướng là tư lệnh của ba quân, có thể khiến ba quân yên, có thể khiến ba quân loạn. Tướng giỏi thì quân cường nước thịnh, tướng không giỏi thì quân suy nước mất”.

Thiên thứ mười một: NGŨ ÂM[sửa]

Võ Vương hỏi Thái Công: “Nghe âm thanh luật quản (nhạc cụ chế bằng ống trúc để làm tiêu chuẩn cho các âm thanh) có thể biết được tin tức của ba quân, có quyết định sự thắng bại hay không?”.

Thái Công đáp: “Câu hỏi của vua thật là sâu sắc. Luật quản có mười hai thứ, căn bản là ngũ âm: cung, thương, giác, chuỷ, vũ. Đấy là những âm thanh chính, muôn đời không thay đổi, là chỗ thần diệu của ngũ hành mà cũng là lẽ thường của đạo.

Nhờ ngũ hành: kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ ta có thể biết được địch và dùng cái hay của mỗi loại để tấn công họ.

Ngày xưa, Tam Hoàng, lấy sự khiêm nhường mà trị sự cứng cỏi, chưa có chữ nghĩa, chỉ dùng ngũ hành. Ngũ hành là đạo tự nhiên của trời đất, chia thành lục giáp thần diệu vô cùng.

Phương pháp áp dụng là nhân lúc trời trong sáng không mây mù mưa gió, nửa đêm đem quân đột nhập thành luỹ địch, cách hơn chín trăm bước, tay cầm luật quản, gào thét bên tai địch, trong âm thanh kích động xen lẫn tiếng quản nghe rất nhỏ.

Tiếng trổ âm giác (mộc) thì dùng bạch hổ (kim), trổ âm thuỷ (hoả) thì dùng huyền vũ (thuỷ), trổ âm thương (kim) thì dùng chu tước (hoả), trổ âm vũ (thuỷ) thì dùng câu trần (thổ). Tiếng quân chấm dứt không trổ âm nào là cung (thổ) thì dùng thanh long (mộc), đấy là âm hiệu ngũ hành giúp cho chiến thắng, là cơ sở của sự thành bại”.

Võ Vương nói: “hay lắm”

Thái Công tiếp: “Khi nghe âm thanh khác lạ thì phải dò xét bên ngoài”

Võ Vương hỏi: “Làm sao mà biết?”

Thái Công hỏi: “Trong khi địch kinh động thì ta để ý nghe. Nghe tiếng trống là giác, thấy lửa sáng là chuỷ, nghe tiếng kim khí là thương, nghe tiếng reo hò là vũ, im lặng không có tiếng động là cung. Đấy là âm điệu của thanh sắc”.

==Thiên thứ mười hai: BINH TRƯNG ==

Võ Vương hỏi Thái Công: “Khi chưa đánh nhau, ta muốn biết biết trước sự mạnh yếu của địch, thấy trước cái điểm thắng bại thì phải làm thế nào?”.

Thái Công đáp: “Cái điềm thắng bại, có thể nhìn thấy ở tinh thần. Người tướng sáng suốt biết xem xét, thì cái bại thuộc về người khác.

Cẩn thận là do sự ra vào tiến lui của địch, xem xét động tĩnh, lời nói tốt xấu do binh sĩ địch tiết lộ.

Nếu ba quân vui vẻ, sĩ tốt tôn trọng pháp luật, tuân theo lệnh tướng, lấy việc phá địch để cùng vui, lấy lòng dũng mãnh để phô tài, lấy uy vũ để kính nhau, thì đấy là điểm mạnh.

Nếu ba quân hay sợ hãi. Sĩ tốt không một lòng lấy địch mạnh doạ nhau, đem điều bất lợi bảo nhau, kháo nhau không hết chuyện xấu, mọi người bàn tán nghi hoặc lẫn nhau, không theo pháp luật, không trọng tướng mình, thì đấy là điểm yếu.

Nếu ba quân tề chỉnh, trận thế vững vàng, thành cao hào sâu, lại được lợi khi mưa to gió lớn, ba quân chỉ cờ ra phía trước, tiếng chiêng vang rất thanh, tiếng trống kêu rất rõ, thì đấy là sự giúp đỡ của thần linh, là điểm thắng lớn.

Nếu ra trận không vững vàng, cờ xí rối loạn quấn lấy nhau, không lợi khi mưa to gió lớn, sĩ tốt kinh hãi, khí thế bị mất, ngựa chiến sợ chạy, xe bị gảy trục, tiếng chiêng thấp đục, tiếng trống khàn như bị thấm nước, thì đấy là điểm thua to.

Phàm đánh thành vây ấp mà trông thấy khí sắc trong thành như tro tàn thì thành ấy có thể đánh được, khí trong thành bốc về hướng Bắc thì thành ấy có thể lấy được. Bốc về hướng Tây thì thành ấy phải đầu hàng. Bốc về hướng nam thì thành ấy không thể chiếm được. Bốc về hướng Đông thì thành ấy không thể đánh được. Bốc rồi lại bay vào làm chủ tướng chạy trốn. Bốc lên rồi che trên quân ta thì quân ta mắc bệnh. Bốc lên cao mãi không dứt là phải chiến đấu lâu dài.

Khi đánh thành vây ấp quá một tuần mà không mưa không sấm, thì phải bỏ đi ngay, vì trong thành đã có người trợ giúp.

Đấy là điềm để biết trước có thể đánh được thì mới đánh, không thể đánh được thì thôi”

Thiên thứ mười ba: NÔNG KH[sửa]

Võ Vương hỏi Thái Công: “Khi thiên hạ yên ổn trong nước vô sự, ta không cần tu bổ chiến cụ, không cần lo việc phòng thủ có được chăng?”

Thái Công đáp: “Những công cụ tấn công hay phòng thủ đều do công việc của con người.

Việc cầy cấy gây trở ngại cho ngựa đi. Xe cộ, ngựa, trâu là dinh lũy, thuẫn, mộc. Dụng cụ cầy bừa là binh khí, mâu, kích. Dù, nón, áo tơi là binh giáp che thân. Cuốc, mai, búa, cưa, chày, cối là vật dụng đánh thành. Trâu, bò, ngựa để vận tải lương thực. Chó, gà để canh phòng kẻ địch. Đàn bà dệt vải để làm cờ xí. Đàn ông san đất là đánh thành.

Mùa xuân sạch cỏ gai là đánh kị binh, mùa hè làm cỏ ngoài đồng là đánh quân bộ, mùa thu gặt lúa là dự trữ lương thực, màu đông chất đầy kho chứa là để phòng thủ vững chắc.

Tổ chức hàng ngũ ở ruộng vườn là tín hiệu gắn bó. Trong làng có viên chức, trong quan có hàng tướng soái. Quanh làng có tường ngăn cách là phân chia đội ngũ. Thu thóc, lấy cỏ làm kho chứa. Xuân thu hai mùa sửa sang thành quách, tu chỉnh mương rạch để đắp chiến lũy.

Cho nên vật dụng dùng vào việc binh là đều ở công việc của con người. Biết chọn những công việc đó là người giỏi trị nước, nên phải khéo dùng các loại gia súc, khai khẩn đất đai, ổn định nhà cửa, đàn ông làm ruộng, đàn bà dệt vải. Đấy là đạo khiến cho nước nhà yên mạnh”.

Võ Vương nói: “Thật là hay vậy”.

hỔ THAO (虎韬): QUÂN HÌNH – KHÍ TÀI.[sửa]

Thiên thứ nhất: QUÂN DỤNG[sửa]

Võ Vương hỏi Thái Công: “Khi vua điều binh, các vật dụng trong ba quân, chiến cụ quân khí ít hay nhiều, có theo khuôn phép không?”.

Thái Công đáp: “Câu hỏi của vua thật là lớn. Các loại chiến cụ quân khí đều có kích thước và số lượng riêng. Đấy là cái uy lớn của nhà vua”.

Võ Vương nói: “Xin được nghe về điều này”.

Thái Công đáp: “Phàm chỉ huy đại binh, tướng và giáp sĩ hàng vạn người, theo phép phải dùng:

– Xe võ xung to 36 cỗ, quân giỏi nỏ cứng mâu kích yểm hộ hai bên, mỗi xe có 24 người đẩy. Dùng bánh xe tám thước, trên xe đặt cờ trống, binh pháp gọi là chấn hải, để phá trận kiên cố, đánh quân địch mạnh.

– Xe võ dục to 72 chiếc, quân giỏi nỏ cứng mâu kích yểm hộ hai bên, dùng bánh xe thước, cột nỏ vào xe, để phá trận kiên cố, đánh quân định mạnh.

– Xe đề dực nhỏ 140 chiếc, cột nỏ vào xe dùng bánh xe hươu, để phá trận kiên cố, đánh quân địch mạnh.

– Xe đại hoàng tham liên 36 cỗ, quân giỏi nỏ cứng mâu kích yểm hộ hai bên, sử dụng phi phù và điện ảnh. Phi phù là loại tên cán đổ cánh trắng, đầu bằng đồng. Điện ảnh là loại tên cánh xanh cánh đỏ, đầu bằng sắt. Ban ngày dùng lụa đỏ dài 6 thước, rộng 6 tấc làm dấu hiệu rực rở. Ban đêm dùng lụa trắng dài 6 thước, rộng 6 tấc làm dấu hiệu sao băng, để phá trận kiên cố, đánh quân bộ và kị binh.

– Xe xung kích to 36 cỗ, chở các võ sĩ cảm tử, có thể xong pha ngang dọc, đánh xe quân nhu và kị binh, còn gọi là điện xa. Binh pháp gọi là điện kích để phá trận kiên cố,đánh bộ binh, kị binh tấn công ban đêm.

– Xe mâu kích nhẹ 160 chiếc,mỗi xe có 3 võ sĩ cảm tử. Binh pháp gọi là đình kích, để phá trận kiên cố, đánh bộ binh và kị binh.

– Gậy sắt đầu vuông nặng 12 cân, đuôi dài 5 thước trở lên, 1200 cây, gọi là thiên bối.

– Rìu to lưỡi dài 8 tấc, nặng 8 cân chuôi dài 5 thước trở lên, 1200 cây, còn gọi là thiên việt.

– Búa sắt đầu vuông nặng 8 cân, chuôi dài 5 thước, 1200 cây, còn gọi là thiên chuỳ, để đánh bộ binh và kị binh.

– Phi câu dài 8 tấc, câu mang dài 4 tấc, chuôi dài 6 thước trở lên, 1200 cây để khi phòng thủ phóng vào quân giặc.

– Xe xung kích gỗ rộng 2 trượng, 120 chiếc còn gọi là hành mã, đi trên đất bằng, để bộ binh đánh quân xa và kị binh.

– Xe ủi gai góc, 2 thước 5 tấc, 120 chiếc để đánh bộ binh và kị binh.

– Muốn đuổi giặc thua chạy, dùng xe đoản xung mâu kích 120 chiếc, xưa Hoàng đế đã dùng để đánh bại Sy-Vưu và quân bộ binh, kị binh.

Muốn đuổi giặc thua chạy, nơi ngõ đường mòn đặt chông sắt lưỡi nhọn 4 tấc, rộng 8 tấc, dài 6 thước trở lên, 1.200 cây, để đánh bộ binh và kị binh.

Phòng giặc thình lình kéo đến khiêu chiến trước khi trời tối, đặt lưỡi dao, chông 2 mũi và gai nhọn hình ngôi sao, rải rác khắp mặt đất, cách nhau 2 tấc, 12.000 cái.

Nơi đồng cỏ trống trãi: đặt mâu ngắn cán vuông bằng sắt, 1200 cây, và mâu dài cán sắt cao 1 thước tấc, để đánh bộ binh, kị binh.

Muốn đuổi giặc thua chạy chống giữ cửa thành, dùng xe mâu kích nhỏ 12 chiếc, cột nỏ trên xe.

Khi ba quân phòng thủ, dùng phên tre nối thành một bộ, rộng 1 trượng 5 thước, cao 8 thước, 120 bộ.

Xe chống đao kiếm rộng 1 trượng 5 thước, cao 8 thước, 520 bộ.

Phi kiều 1 bộ để vượt hào sâu, rộng 1 trượng 5 thước, dài 2 trượng trở lên, dùng ròng rã 8 bộ,cột dây kéo lên.

Phi giang 8 bộ, để vượt sông to rộng 1 trượng, 5 thước, dài 2 trượng trở lên, cột dây kéo lên.

Thiên phù 32 chiếc trong vuông ngoài tròn, đường kính 4 thước trở lên, để nối liền với nhau.

Đặt phi giang lên thiên phù để vượt qua bể cả gọi là thiên hoàng hay là thiên hương (thuyền).

Đóng quân nơi rừng núi thì kết phên che dinh, xung quanh có cọc sắt dài 2 trượng trở lên, 1.200 cây.

Dây to 4 tấc, dài 4 trượng trở lên, 600 sợi

Dây vừa 2 tấc, dài 4 trượng trở lên, 200 sợi

Dây nhỏ dài 2 trượng trở lên, 1.200 sợi.

Trời mưa dùng ván đậy xe rộng 4 thước, dài 4 trượng trở lên, mỗi xe dùng bằng cọc sắt.

Rìu to để chặt cây, nặng 8 cân, chuôi dài 3 thước trở lên, 300 cây.

Kích bọc lụa đỏ lưỡi rộng 6 tấc, chuôi dài 5 thước trở lên, 300 cây.

Đồng trúc dài thước trở lên, 300 cây.

Cào sắt chuôi dài 7 thước trở lên, 300 cây.

Chĩa sắt chuôi dài thước trở lên, 300 cây.

Chĩa sắt 2 ngạnh chuôi dài 7 thước trở lên, 300 cây. Liềm to phát cỏ, chuôi dài 7 thước trở lên 300 cây.

Đẩu to nặng 8 cân, chuôi dài 6 thước, 300 cây.

Cọc sắt dài 3 thước trở lên, 300 cây

Búa to nặng 5 cân, chuôi dài 2 thước trở lên 120 cây.

Giáp sĩ 10.000 người. Nỏ cứng 6.000 chiếc. Kích thuẩn 2.000 bộ

Mâu thuẩn 2.000 bộ

Thợ giỏi để sửa chiến cụ, mài binh khí, 300 người.

Đấy là số lượng lớn về quân dụng để dùng vào việc binh”.

Thiên thứ hai: TAM TRẬN

Võ Vương hỏi Thái Công: “Phàm dùng binh bày thiên trận, địa trận, nhân trận như thế nào?”.

Thái Công đáp: “Mặt trời, mặt trăng, sao đẩu, sao tiêu, một bên trái, một bên phải, một đằng trước, một đằng sau, gọi là thiên trận.

Gò, đống, sông, suối cũng có lợi về đằng trước đằng sau, bên trái, bên phải gọi là địa trận.

Dùng xe, dùng ngựa, dùng văn, dùng võ gọi là nhân trận”.

Võ Vương nói: “Thật là hay vậy”.

Thiên thứ ba: TẬT CHIẾN[sửa]

Võ Vương hỏi Thái Công: “Khi địch vây ta, cắt đứt phía trước, phía sau, chặn đường vận chuyển lương thực của ta thì phải làm thế nào?”.

Thái Công đáp: “Đấy là quân ta bị nguy khốn. Dùng binh nhanh bạo thì thắng, chậm trễ thì thua. Trong tình trạng này, phải áp dụng tử võ xung trận. Dùng chiến xa và kị binh dũng cảm gây rối trong hàng ngũ địch, rồi thừa cơ đánh thật nhanh thì có thể tự do tung hoành”.

Võ Vương hỏi: “Khi thoát khỏi vòng vây, ta muốn nhân dịp đó mà đánh thắng địch thì phải làm thế nào?”

Thái Công đáp: “Quân bên trái đánh nhanh về phía trái, quân bên phải đánh nhanh về bên phải, không tranh giành đường đi vơi địch. Quân ở giữa thì thay đổi khi trước khi sau. Như thế, binh địch tuy đông, nhưng tướng có thể bỏ chạy”.

Thiên thứ bốn: TẤT XUẤT[sửa]

Võ Vương hỏi Thái Công: “Đem quân vào sâu đất chư hầu, bị địch bao vây bốn mặt, chặn đường rút lui cắt đứt đường vận chuyển lương thực của ta. Quân địch đã đông lương thực lại nhiều, ta rơi vào hoàn cảnh nguy hiểm mà muốn thoát ra thì phải làm thế nào?”

Thái Công đáp: “Cách để thoát ra là lấy khí giới làm quý, chiến đấu anh dũng làm đầu, biết rõ điểm yếu của địch và những chổ không có người thì có thể thoát được.

Tướng sĩ cầm cờ đen, mang khí giới, ngậm hàm mai, chờ đêm đến đem hết sức.

Tướng sĩ can đảm dàn hàng ngang đi đầu, mở đường cho quân tiến lên. Quân giỏi nỏ cứng làm phục binh đi sau, quân yếu và xa kị đi giữa. Dàn trận xong rồi thong thả mà đi, cẩn thận đề phòng, không nên sợ hãi, cho xe võ xung đi trước và sau để chống cự, xe võ dực phòng vệ hai mặt phải, qua trái.

Nếu quân địch phát giác, thì tướng sĩ can đảm đánh nhanh về trước, quân yếu và xa kị theo sau, quân giỏi nỏ cứng mai phục một nơi để theo dõi, chờ địch đuổi đến thì nổi trống đốt lửa, đánh mạnh sau lưng như ở dưới đất chui lên: từ trên trời rơi xuống, ba quân chiến đấu mạnh mẽ thì địch không có thể chống lại ta”.

Võ Vương nói: “Phía trước có sông to, hào rộng hố sâu, ta muốn vượt qua mà không chuẩn bị thuyền bè. Quân địch đóng đồn ngăn trước chặn sau, các nơi hiểm yếu đều có quân thường xuyên cảnh giới. Quân xa kị đón đánh phía trước, quân cảm tử đuổi đánh phía sau thì làm thế nào ?”

Thái Công đáp: “Nơi sông to, hào rộng, hố sâu quân địch thường không lưu ý phòng thủ, hoặc có phòng thử thì quân cũng ít.

Gặp trường hợp này thì dùng thuyền để vượt qua, quân sĩ khỏe, mạnh và tài giỏi, dưới sự chỉ hủy của ta, cảm tử xông vào trận địch.

Trước phải đốt hết quân dụng, kế đến thiêu hủy lương thực, rồi nói rõ cho sĩ tốt biết nếu đánh mạnh thì sống, không đánh mạnh thì chết.

Khi ra khỏi thì ra lệnh cho quân phía sau nổi lửa canh phòng, ở những nơi có cây cỏ gò mô hiểm trở, quân xa kị địch ắt không dám đuổi theo quá xa. Vì có lửa làm dấu, nên ra lệnh cho quân chạy đến chỗ có lửa thì dừng, gọi là tử võ xung trận. Như thế, ba quân đều chiến đấu mạnh mẽ, không gì có thể ngăn cản được.

Thiên thứ năm: QUÂN LƯỢC[sửa]

Võ Vương hỏi Thái Công: “Đem quân vào sâu đất chư hầu, gặp khe sâu suối lớn, dòng nước hiểm trở, ba quân chưa qua hết thì có mưa to, dòng nước chảy xiết, phía sau không liên lạc được với phía trước. Ta không chuẩn bị thuyền bè, dưới nước cũng không có cây cối có thể giúp mình sang sông. Ta muốn vượt sông thì làm thế nào?”

Thái Công đáp: “Khi đem quânđi tác chiến mà tướng không tính trước, khí giới không đầy đủ, huấn luyện không tin tường, binh sĩ không thuần phục, như thế không phải là quân của bậc vua chúa.

Khi ba quân làm chiến ai cũng phải biết sử dụng các loại khí giới. Đánh thành, vây ấp thì có xe để đánh thành. Trước khi xung kích, muốn nhìn rõ trong thành thì phải có thang cao. Ba quân đi hay dừng thì phải có xe võ xung phòng thủ trước sau.

Gặp đường cùng ngõ hẹp thì phải có quân giỏi, nỏ cứng bảo vệ hai bên đường. Xây cất dinh lũy thì có lưới sắt phên tre, cỏ gai ngăn cản ngựa, ban ngày lên thang cao nhìn xa, dựng cờ ngũ sắc, ban đêm thắp hàng vạn ngọn đèn, đánh trống khua chiêng thổi kèn, vượt hào sâu thì có phi kiều, bừa, cuốc. Qua sông to thì có thuyền. Đi ngược dòng nước thì có cầu nổi. Ba quân có đầy đủ dụng cụ thì chủ tướng không còn lo gì nữa”.

Thiên thứ sáu: LÂM CẢNH[sửa]

Võ Vương hỏi Thái Công: “Ta với địch đánh nhau ở biên cương, địch có thể đến chổ ta, ta có thể đến nơi được, hai bên đều dàn trận kiên cố, không ai dám đốc binh trước. Ta muốn tiến công địch, địch cũng có thể tiến công ta, thì phải làm sao?”

Thái Công đáp: “Chia quân ra ba nơi. Lệnh cho tiền quân đào hào đắp lũy mà không ra, trương cờ xí đánh trống trận mà phòng ngự.

Lệnh cho hậu quân tích trữ lương thực, không để địch biết ý định của ta. Rồi sai quân tinh nhuệ len lỏi mà trộn vào trong dụ địch, đánh lúc họ không để ý, tiến công khi họ không phòng bị, địch không biết tình hình ta, nên không chống lại được”.

Võ Vương hỏi: “Địch biết tình hình ta, rõ mưu kế ta, thám thính được sự việc của ta, đem quân tinh nhuệ mai phục nơi rậm rạp hiểm trở, đánh vào chổ yếu của ta, thì phải làm thế nào?”.

Thái Công đáp: “Lệnh cho tiến quân ban ngày ra khiêu chiến làm cho địch mỏi mệt. Cho quân già yếu cầm cây, đánh trống, hò reo qua lại ở hai bên, không quá trăm bước.

Tướng địch sẽ phải mệt, quân địch sẽ phải sợ hãi, như thế địch sẽ không dám đến chổ ta, còn ta có thể qua bên địch mà không bị ngăn cản, hoặc kích bên trong hoặc kích bên ngoài, ba quân đánh úp thật nhanh thì địch phải thua”.

Thiên thứ bảy: ĐỘNG TỊNH[sửa]

Võ Vương hỏi Thái Công: “Đem quân vào sâu đất chư hầu, chạm trán với địch, hai bên đang ghìm nhau, mạnh yếu đều ngang nhau, chưa ai dám đánh trước.

Ta muốn làm cho tướng địch sợ hãi, sĩ tốt của nó lo âu khi đi trận khí thế không vững vàng, phía sau chỉ muốn chạy, phía trước nhìn về phía sau, ta thừa cơ đánh trống reo hò, khiến địch bỏ chạy thì phải làm thế nào?”.

Thái Công đáp: “Như thế thì ta đem quân đánh địch mười dặm, mai phục hai bên sườn, cho quân xa kị vượt qua hai phía trước và sau quân địch chừng trăm dặm, dùng nhiều cờ xí và chiêng trống.

Khi đánh nhau thì nổi trống reo hò, tướng địch phải kinh hoàng, quân địch sợ hãi, không cứu được nhau, người sang kẻ hèn không đợi nhau thì địch phải thua”.

Văn Vương hỏi: “Nếu địa thế địch khiến ta không thể mai phục hai bên, quân xa kị không thể vượt qua hai phía trước sau, địch biết ý ta nên đề phòng trước. Quân ta hoang mang tướng tá sợ hãi, không đánh thắng địch thì làm thế nào?”.

Thái Công đáp: “Câu hỏi của vua thật là tế nhị. Như thế thì trước khi giao chiến năm ngày, cho quân xích hầu thám thính tin tức địch, để biết rõ nơi họ sẽ đến, rồi dàn quân phục kích đợi chờ, rồi dụ địch vào tử địa.

Ta tránh giao chiến với địch, đưa cờ xí ra xa hàng ngũ lỏng lẻo, địch ắt đuổi theo, ta bèn chống cự, đánh nhau một trận rồi bỏ chạy không ngớt khua chiêng, chạy được ba dặm thì quay lại, khi ấy phục binh nổi lên, hoặc vây hãm hai bên sườn, hoặc công kích hai phía trước và sau, ba quân đánh áp sát thật nhanh thì địch phải chạy”.

Thiên thứ tám: KIM CỔ[sửa]

Võ Vương hỏi Thái Công: “Đem quân vào sâu đất chư hầu, chạm trán với địch, gặp thời tiết quá lạnh, quá nóng, mưa dầm hết ngày này sang ngày khác. Hào luỹ đều hư, cửa ải không phòng thủ, quân xích hầu biếng nhác, sĩ tốt không cảnh giới. Ban đem địch đến ba quân không đề phòng, trên dưới rối loạn thì phải làm thế nào?”.

Thái Công đáp: “Phàm trong ba quân, phải cảnh giác thật nghiêm ngặt, biếng nhác thì thua.

Ra lệnh cho quân trên thành, mọi người đều phải cầm cờ xí, dùng dấu hiệu để truyền lệnh mà không dùng lời nói. Tất cả đều hướng về bên ngoài, ba ngàn người lập thành một đồn, nhắc nhở nhau mỗi người phải giữ gìn cẩn thận chỗ của mình.

Nếu quân địch đến, thấy ta cảnh giới, thì cũng phải bỏ về, đã mệt sức lại nhụt chí, bấy giờ ta cho quân tinh nhuệ đuổi theo mà đánh”.

Võ Vương hỏi: “Nếu địch biết ta đuổi theo mà phục binh tinh nhuệ, giả thua chạy qua chỗ phục kích rồi quay lại, hoặc đánh phía trước, hoặc đánh phía sau, hoặc đánh thành của ta. Ba quân sợ hãi rối loạn, mất cả trật tự bỏ chỗ của mình, thì làm thế nào?”.

Thái Công đáp: “Chia quân làm ba đội mà đuổi theo, đừng vượt qua chỗ phục binh của họ. Khi ba đội cùng đến, hoặc đánh hai phía trước sau; hoặc hãm hai bên sườn, hiệu lệnh rõ ràng, đánh nhanh đánh trước thì địch phải thua”.

Thiên thứ chín: TUYỆT ĐẠO =[sửa]

Võ Vương hỏi Thai Công: “Đem quân vào sâu đất chư hầu, cầm cự với địch, địch chặn đường vận tải lương thực của ta, lại vượt qua hai phía trước và sau của ta.

Nếu ta đánh thì không thắng, mà thủ thì không giữ được lâu, vậy phải làm thế nào?”

Thái Công đáp: “Khi đi sâu vào đất địch, phải xét tình thế đất đai tìm chổ tiện lợi, dựa vào núi rừng hiểm trở, có thể suối nước, cây cối mà cũng cố, phòng thủ cẩn thận các nơi quan trọng, lại phải biết lợi thế của thành ấp gò mả. Như thế thì quân ta vững vàng, địch không thể chặn đường vận tải, lương thực cũng không thể vượt qua hai phía trước và sau của ta.

Võ Vương hỏi: “Ba quân qua đồi cao đầm rộng hay chỗ đất bằng phẳng, quân ta bị thất lạc, đột nhiên gioa chiến với địch, nếu đánh mà không thắng, mà thủ thì không vững. Địch bố trí hai bên sườn và vượt qua hai mặt trước và sau của ta khiến cho ba quân kinh sợ thì làm thế nào?”.

Thái Công đáp: “Phàm phép cầm binh, cách địch hai trăm dặm, cánh gần năm chục dặm, nếu có chuyện khẩn cấp thì trước sau có thể cứu nhau.

Ba quân luôn luôn phòng bị vững chắc thì không bị tổn thất”.

Thiên thứ mười: LƯỢC ĐỊA[sửa]

Võ Vương hỏi Thái Công: “Khi đánh thắng tiến sâu vào chiếm đất địch gặp thành lớn không hạ được, lại có một đạo quân đặt biệt của địch đóng nơi hiểm yếu chống lại ta.

Ta muốn đánh thành vây ấp, chỉ e quân địch bất chợt kéo đến, trong ngoài liên kết vây đánh ta, khiến ba quân rối loạn, trên dưới sợ hãi, thì phải làm thế nào?”.

Thái Công đáp: “Phàm khi công thành xây ấp thì cho quân xa kị đóng đồn ở xa để cảnh giới và ngăn trở sự liên lạc giữa bên trong và bên ngoài. Nên bên trong hết lương bên ngoài không thể đưa vào, ngoài trong thành sợ hãi thì tướng địch phải đầu hàng”.

Võ Vương hỏi: “Nếu bên trong hết lương, bên ngoài không thể đưa vào, địch lén giao ước với nhau, mưu kế bí mật, ban đêm đưa quân cảm tử ra quyết chiến, quân xa kị tinh nhuệ xôgn thẳng vào trong trận ta, hoặc đanh từ ngoài vào khiến cho sĩ tốt hoang mang, ba quân tán loạn, thì làm thế nào?”.

Thái Công đáp: “Như thế thì chia quân làm ba phần, xem kỹ địa hình mà chiến đấu, dò xét nơi trú quân và thành luỹ địch, nhân đó bố trí để nhữ địch, đề phòng cẩn mật không để sơ hở.

Quân địch sợ hãi, nếu không chạy vào rừng núi thì chạy về ấp lớn. Cho toán quân địch đi rồi, đem quân xa kị vượt lên đón phía trước đừng để họ trốn thoát.

Người trong thành tưởng là toán quân đi trước đã tìm được lối thoát, ắt cho quân giỏi ra theo, chỉ để lại binh sĩ già yếu. Khi ấy ta đem quân xa kị đuổi theo thật xa, khiến địch khôgn dám ra nữa, nhưng tránh giao chiến với địch, mà chỉ bao vây phòng thủ bên ngoài để chặn đường vận lương của địch.

Không đốt đồ vật, không phá nhà cửa, không đẵn cây cối, khôgn giết kẻ đầu hàng, không hại người bị bắt. Chỉ thị điều nhân nghĩa, ban ân đức sâu rộng, lệnh cho quân dân đich biết là tội chỉ do một người, như thế thì thiên hạ sẽ yên phục”.

Thiên thứ mươi một: HOẢ CHIẾN[sửa]

Võ Vương hỏi Thái Công: “Đem quân vào sâu đất chư hầu, gặp nơi cỏ rậm um tùm bao phủ quân ta bốn phía, đi vài trăm dặm thì người ngựa mệt mỏi phải nghỉ ngơi.

Địch thừa lúc trời nắng gió to, đốt lửa ở đầu gió, lại cho quân giỏi và xa kị phục sau lưng ta khiến ba quân sợ hãi, bỏ chạy tán loạn, thì phải làm thế nào?”.

Thái Công đáp: “Như thế dùng dùng thang mây và lầu cao để nhìn xa hai bên phải trái, quan sát hai phía trước và sau, thấy lửa cháy thì lập tức đốt phía trước cho cháy rộng ra và đốt luôn phía sau ta.

Nếu địch đến phía trước thì dẫn quân lui theo chỗ đất đen. Nếu địch đến phía sau, thấy lửa cháy ắt chạy trở về. Ta cứ tìm chổ đất đen mà đóng, cho quân giỏi nỏ cứng bảo vệ hai bên phải trái và đất hai phía trước sau thì địch không thể hại ta được”.

Võ Vương hỏi: “Địch đốt hai bên phải trái của ta, lại đốt cả hai phía trước sau, khói mù che lấp quân ta, đại binh địch cũng tìm chổ đất đen mà đến thì làm thế nào?”.

Thái Công đáp: “Như thế thì áp dụng tử võ xung trận, cùng xông ra bốn mặt, cho quân giỏ nỏ cứng bảo vệ hai bên phải trái, theo cách này thì không thắng cũng không thua”.

Thiên thứ mười hai: LUỸ HƯ[sửa]

Võ Vương hỏi Thái Công: “Làm thế nào mà biết được sự hư hay thực, việc đi hay đến trong thành luỹ địch”.

Thái Công đáp: “Làm tướng phải trên rõ đạo trời, dưới rành địa lí giữa thông nhân sự, lên chỗ cao trông xuống để quan sát sự biến động của địch, nhìn thành luỹ thì biết thực hay hư, xem sĩ tốt thì biết đi hay đến”.

Võ Vương hỏi: “Làm sao mà biết?”

Thái Côgn đáp: “Nghe không có tiếng trống, tiếng chiêng, trông lên thành thấy nhiều chim bay lượn mà không sợ hãi, không thấy có hung khí, thì biết địch giả đặt người gỗ.

Địch bỏ đi không xa, chưa ổn định quân thế mà quay trở lại, là họ dùng binh quá vội vàng. Vội vàng thì trước sau không theo thứ tự, mất thứ tự thì ra trận phải loạn.

Như vậy, ta mau đem quân tấn công, lấy ít đánh nhiều cũng thắng địch”.

BAO THAO(豹韬): CHIẾN THUẬT.[sửa]

Thiên thứ 1: LÂM CHIẾN[sửa]

Võ Vương hỏi Thái Công: “Khi dẫn quân tiến sâu vào đất chư hầu gặp phải rừng rậm, ta và địch chia rừng ra chống giữ nhau. Ta làm thế nào để thủ thì kiên cố mà đánh thì chắc thắng?”

Thái Công đáp: “Cho ba quân của ta lập thành một đội, xung kích, chỗ nào tiện lợi thì đóng quân cung nỏ bên ngoài kích thuẫn ở bên trong. Chặt cây cỏ cho thật trống, để tiện đường đánh giặc của ta.

Chỗ cao cắm cờ xí, nhắc nhỡ binh sĩ cẩn thận không để cho địch biết rõ tình hình của phép đánh giặc trong rừng thì phải cho quân sử dụng mâu kích xếp thành hàng ngũ, chỗ rừng thưa cho kị binh yểm trợ, chiến xa đặt ở đàng trước, thấy tiện lợi thì đánh, thấy không có lợi thì đừng.

Ở cánh rừng hiểm trở ắt phải bố trí một đội xung kích để phòng ngừa mặt trước mặt sau, quân ta phải đánh nhanh, quân địch tuy đông nhưng tướng địch ắt sẽ bỏ chạy, ta cho binh sĩ luân phiên vừa đánh vừa nghỉ. Mọi người phải đi theo đội ngũ của mình, ấy là phép đánh giặc trong rừng”.

Thiên thứ 2 : ĐỘT CHIẾN

Võ Vương hỏi Thái Công: “Khi quân địch tiến sâu vào nước ta xâm chiếm đất đai ta, lừa bắt trâu và ngựa của ta, quân địch lại đến bao vây dưới chân thành ta, quân sĩ ta kinh hãi, nhân dân ta vì tiếc của cải nên bị địch bắt sống, như vậy làm thế nào để phòng thủ thì kiên cố mà đánh thì chắc thắng?”

Thái Công đáp: “Trường hợp này phải dùng đột binh, vì trâu ngựa không được ăn, binh sĩ hết lương thực. Nên phải đánh nhanh ở mặt trước, rồi ra lệnh cho các ấp xa xôi chọn quân sĩ tinh nhuệ đánh nhanh ở mặt sau, rồi tổ chức đánh địch ban đêm, quân ta tinh nhanh, địch tuy đông, tướng địch cũng có thể bị ta bắt sống”.

Võ Vương hỏi: “Địch chia ra ba bốn mặt hoặc tiến đánh chiếm đất đai ta, hoặc dùng quân bắt trâu ngựa ta, đại quân của địch chưa đến đầy đủ mà cho những cánh quân ô hợp bao vây chân thành ta, khiến cho ba quân ta sợ hãi, như vậy phải làm thế nào?”

Thái Công đáp: “Ta phải quan sát cẩn thận, khi quân địch đến đầy đủ thì phải chuẩn bị chu đáo mà chờ địch đến. Cách thành 4 dặm cho xây chiến lũy, chiêng trống cờ xí đều bày ở trên lũy, các đội khác đặt làm phục binh. Trên chiến lũy có đặt nhiều nỏ mạnh, cứ trăm bộ lại có một cửa đột kích, trước mỗi cửa đều có kị binh và chiến xa.

Các chiến sĩ tinh nhuệ, có sức mạnh và gan dạ mai phục một nơi. Nếu quân địch kéo đến cho khinh binh ra giao chiến rồi giả thua bỏ chạy, khi ấy ở trên thành treo cờ xí, đánh chiêng trống làm như cố thủ, quân địch cho rằng quân ta thủ thành nên bao vây, lúc đó phục binh của ta xông ra đánh ở giữa, hoặc đánh ở bên ngoài, quân ta đánh nhanh, đằng trước, hoặc đằng sau.

Quân địch dù có liều lĩnh cũng không hề chống cự nổi, kẻ nhát gan cũng không kịp bỏ chạy.

Đó gọi là đột chiếm, quân địch tuy đông, tướng địch ắt sẽ bỏ chạy”.

Võ Vương nói: “Hay lắm”

Thiên thứ 3: ĐỊCH CƯỜNG[sửa]

Võ Vương hỏi Thái Công: “Khi dẫn quân tiến sâu vào đất chư hầu, quân ta và quân địch đương đầu nhau, địch đông ta ít, địch mạnh ta yếu. Nửa đêm quân địch kéo đến hoặc đánh bên trái, hoặc đanh bên phải, quân ta náo động, như vậy phải làm sao để đánh thì thắng mà thủ thì vững chắc”.

Thái Công đáp: “Đó là quân địch uy hiếp quân ta, có lợi cho việc đánh chứ không có lợi cho việc phòng thủ. Ta phải chọn lựa binh sĩ có tài, biết sử dụng nỏ mạnh, chiến xa và cưỡi ngựa, ra quân bên trái và bên phải, rồi đánh nhanh ở đàng trước và đánh gấp ở đàng sau, hoặc đánh ở bên ngoài, hoặc đánh ở bên trong. Như vậy binh sĩ địch ắt phải rối loạn, tướng địch ắt phải sợ hãi”.

Võ Vương hỏi: “Quân địch án ngữ ở phía trước ta, đánh gấp ở phía sau ta, cắt đứt đường tiến quân của cánh quân tinh nhuệ ta, chặn đứng binh sĩ tài ba của ta, khiến quân ở trong và ngoài của ta không thể liên lạc với nhau, quân ta bị rối loạn, tan tác và bỏ chạy. Binh sĩ không có tinh thần chiến đấu, tướng súy và quan quân không quyết tâm chống giữ, như vậy phải làm thế nào?”

Thái Công đáp: “Câu hỏi của vua sáng suốt lắm! Vậy ta phải ra hiệu lệnh cho rõ ràng. Dùng những người dũng cảm tinh nhuệ và dám mạo hiểm, một người cầm đuốc, hai người đánh trống, như vậy ta sẽ biết được chỗ ở của địch. Lúc ấy ta đánh vào bên ngoài hoặc bên trong, rồi ra ám hiệu cho tắt lửa và ngừng đánh trống. Trong và ngoài hợp lực đánh thật nhanh, quân địch ắt phải thua.

Thiên thứ 4: ĐỊCH VŨ[sửa]

Võ Vương hỏi Thái Công: “Khi dẫn quân tiến sâu vào đất chư hầu bất thần gặp quân địch đông và mạnh, chúng dùng chiến xa và kị binh bao vây bên trái và bên phải ta, quân ta đều sợ hãi bỏ chạy không thể ngăn cản được, như vậy phải làm sao?”

Thái Công đáp: “Như vậy gọi là bại binh rồi, phải khéo léo thì có thể thắng, nếu không khéo thì sẽ bị tiêu diệt”.

Văn Vương hỏi: “Phải làm như thế nào?”

Thái Công đáp: “Ta phải bố trí lính tinh nhuệ, nỏ mạnh, chiến xa và kị binh ở bên trái và bên phải trước, sau cách nhau ba dặm. Khi quân địch đuổi ta thì cho chiến xa và kị binh xông ra đánh bên trái và bên phải. Làm như vậy quân địch ắt phải náo loạn, và quân bỏ chạy của ta cũng sẽ dừng lại.

Võ Vương hỏi: “Khi quân địch đương đầu với chiến xa và kị binh của ta, địch đông ta ít địch mạnh ta yếu, quân địch hàng ngủ chỉnh tề có trật tự và tinh nhuệ, quân ta không dám chống lại địch, như vậy phải làm sao?”

Thái Công đáp: “Ta chọn binh sĩ tinh nhuệ dùng nỏ mạnh, mai phục bên trái và bên phải, chiến xa và kị binh đóng yên một chỗ, đợi đến khi quân địch đi qua chỗ phục binh của ta, cung nỏ bên trái và bên phải cùng lúc bắn ra. Lúc ấy chiến xa kị binh và tinh binh tiến đánh thật nhanh hoặc đánh đằng trước địch hoặc đánh đằng sau địch.

Quân địch tuy đông nhưng tướng địch ắt bỏ chạy.

Thiên thứ 5: ĐIỂU VÂN SƠN BINH[sửa]

Võ Vương hỏi Thái Công: “Khi dẫn quân tiến sâu vào đất chư hầu gặp phải núi đá cao vòi vọi mà không có cỏ cây, bốn bề đều đương đầu với địch, ba quân ta sợ hãi, binh sĩ ta hoang mang, như vậy phải làm thế nào để thử thì vững chắc mà đánh thì sẽ thắng?”

Thái Công đáp: “Khi đóng quân ở trên núi cao thì sẽ bị địch uy hiếp bao vây, khi đã chọn núi để đóng quân thì phải bày điểu vân trận. Theo cách thức bày trận, trận điểu vân thì phía dương và phía âm cũng phải phòng bị hoặc đóng quân ở phía âm hoặc đóng quân ở phía dương. Nếu đóng quân ở phía dương thì lo phòng bị ở phía âm, nếu đóng quân ở phía âm thì lo phòng bị ở phía dương. Nếu đóng quân ở phía bên trái thì lo phòng bị ở phía bên phải, nếu đóng quân ở phía bên phải thì lo phòng bị ở phía bên trái. Như vậy quân đich chỉ có thể đánh phá ở phía bên ngoài của cánh quân phòng thủ mà thôi. Những con đường ăn thông đến hang động phải dùng chiến xa ngăn chặn. Cờ xí cấm ở trên cao nhắc nhở binh sĩ cẩn thận không để cho quân địch biết rõ tình hình của ta.

Như vậy gọi là xây thành ở trên núi. Khi hàng ngũ đã đàng hoàng, binh sĩ đã bày xong trận, pháp lệnh đã được thi hành, quân giả và quân chính quy đã được thiết lập. Tất cả đều lập đội xung kích ở bên ngoài núi. Chỗ đóng quân phải chia chiến xa và kị binh ra bày điểu vân trận rồi thúc quân đánh thật nhanh. Như vậy quân địch tuy đông, tướng địch có thể bị bắt sống.

Thiên thứ 6: ĐIỂU VÂN TRẠCH BINH[sửa]

Võ Vương hỏi Thái Công: “Khi dẫn binh tiến sâu vào đất chư hầu: ta và địch gặp nhau tại con sông, địch giàu có mà chưa đông, ta nghèo nàn mà binh ít. Ta muốn vượt sông đánh địch mà không thể tiến, muốn cầm cự lâu ngày mà không đủ lương thực. Chỗ ta đóng quân là nơi nước mặn đồng chua bốn bề không có làng mạc, lại không có cỏ cây. Quân ta tìm không ra lương thực, trâu và ngựa của ta không có rơm cỏ để ăn. Như vậy phải làm sao?”.

Thái Công đáp: “Ba quân ta không phòng bị, trâu ngựa không có thức ăn, binh sĩ không có lương thực, như vậy phải tìm cách đánh lừa địch để bỏ đi ngay và phải đặt phục binh ở đằng sau”.

Võ Vương hỏi: “Ta không đánh lừa được địch mà binh sĩ ta lại hoang mang, địch đánh phía trước và phía sau ta. Ba quân ta tán loạn thua chạy. Như vậy phải làm sao?”

Thái Công đáp: “Ta tìm lối thoát là chính, dựa theo tình hình địch mà sử dụng một cách khéo léo”.

Võ Vương hỏi: “Quân địch biết rằng ta có đặt phục binh. Nên đại quân của chúng không dám vượt sông mà chỉ cho những toán nhỏ qua sông. Quân ta thấy vậy rất lấy làm sợ hãi. Như vậyphải làm sao?”

Thái Công đáp: “Nếu như vậy ta phải chia ra làm nhiều toán xung kích, chọn chỗ tiện lợi mà đóng quân. Đợi những toán quân nhỏ của địch sang đến bên này bờ sông thì ta cho phục binh đánh nhanh ở phía sau. Nỏ mạnh ở bên trái và bên phải cùng lúc bắn ra. Chiến xa và kị binh lập thành trận điểu vân lo phòng bị ở trước và ở sau. Quân ta đánh thật nhanh, quân địch thấy quân ta tiến đánh ắt họp đại binh lại để vượt sông. Khi đó ta cho phục binh đánh nhanh ở phía sau, chiến xa và kị binh tiến đánh bên trái và bên phải. Quân địch tuy đông, tướng của địch cũng sẽ bỏ chạy. Điểm quan trọng của việc dùng binh là trong khi lâm chiến với địch phải tuỳ nghi mà đặt xung trận và coi chỗ nào tiện lợi thì đóng quân rồi sau mới chia kị binh ra thành lập điểu vân trận. Đó là điều đặt biệt của việc dùng binh. Gọi là điểu vân tức là điểu tan vân hợp (chim bay tản ra và mây tụ hợp lại).

Thiên thứ 7: THIỂU CHÚNG[sửa]

Võ Vương hỏi Thái Công rằng: “Ta muốn dùng binh ít mà đánh binh đông, dùng binh yếu đánh binh mạnh, như vậy phải làm sao?”.

Thái Công nói: “ Muốn dùng binh ít để đánh binh đông thì phải đợi khi chiều tối cho binh mai phục ở chổ cỏ cây rậm rạp và đoạn đường hiểm yếu mà đánh địch. Còn muốn dùng binh yếu đánh quân mạnh thì phải được sự trợ giúp của nước lớn đối với các nước láng giềng”.

Võ Vương hỏi: “Chỗ ta đóng quân không có cỏ cây rậm rạp lại không có những quảng đường hiểm yếu. Địch không đến vào buổi chiều, ta lại không được sự giúp đỡ của nước lớn và các nước láng giềng. Như vậy phải làm thế nào?”

Thái Công đáp: “Ta dùng nghệ thuật đánh lừa để dụ dỗ chúng, làm cho tướng của địch phải nghi ngờ. Ta đi đường cong khiến cho địch phải qua chỗ cỏ cây rậm rạp. Ta đi đường xa, khiến địch phải gặp ta vào buổi chiều. Đánh vào lúc địch chưa kịp vượt sông. Hậu quân của địch chưa kịp xuất quân, thì ta cho phục binh đánh nhanh ở bên trái và bên phải.

Chiến xa và kị binh quấy nhiễu mặt trước và mặt sau của địch. Quân địch tuy đông tướng địch cũng phải bỏ chạy. Sau đó ta phải giao hảo với nước lớn, nhún nhường đối với binh sĩ các nước láng giềng, dùng của cải dụ dỗ họ. Dùng lời lẽ khiêm nhường đối với họ, làm như vậy ta sẽ được nước lớn và các nước láng giềng trợ giúp”.

Thiên thứ 8: : PHÂN HIỂM[sửa]

Võ Vương hỏi Thái Công: “Khi dẫn quân tiến sâu vào đất chư hầu, gặp địch tại nơi hiểm trở, bên trái của ta là núi, bên phải là sông. Bên phải của địch là núi, bên trái là sông. Địch và ta chia vùng hiểm trở mà chống cự nhau, phải làm sau để thủ thì vững chắc mà đánh thì sẽ thắng?”.

Thái Công nói rằng: “Đóng quân bên tả núi thì phòng bị bên hữu núi, đóng quân bên hữu núi thì phòng bị bên tả núi. Chỗ hiểm trở có sông lớn không có thuyền thì dùng cầu nổi (thiên hoàng) để binh ta sang sông, xong phải mở rộng đường đất để tiện cho chiến đấu, đặt xe vũ xung ở trước và sau, nỏ mạnh bày ở hai bên, ra lệnh giữ kỹ các tuyến đường dùng xe vũ xung chặn các cửa hang, cắm cờ xí ở trên cao, như vậy gọi là xây thành bằng xe. Theo phép đánh giặc thì ở chỗ hiểm yếu phải đặt xe vũ xung ở phía trước và cỗ xe đại lỗ dùng để yểm trợ. Binh sĩ tinh nhuệ và nỏ mạnh ở hai bên trái và phải có 3000 người để đóng đồn và bày xung trận. Chỗ tiện lợi thì đóng quân. Tả quân ở bên trái, Hữu quân ở bên phải, Trung quân ở giữa, cùng lúc tiến đánh, đánh xong trở về đồn, thay phiên nhau vừa đánh vừa nghỉ, đánh đến khi nào thắng mới thôi”.

Võ Vương khen rằng : “Hay lắm”

KHUYỂN THAO (犬韬): LUYỆN SĨ[sửa]

Thiên thứ 1: PHÂN BINH[sửa]

Võ Vương hỏi Thái Công: “Các vua cầm ba quân đóng ở nhiều nơi, nếu muốn tập hợp quân lại để tuyên thệ và thưởng phạt thì phải làm cách nào?”

Thái Công đáp rằng: “Thường phép dùng binh trong ba quân thì: Đại tướng phải địch trước chiến địa và ngày giao chiến rồi mới chuyển hịch thư đến các tướng lĩnh hẹn thời hạn đánh thành vây ấp. Thông báo cho các nơi biết rõ ngày đánh trận, ấn định thời giờ cụ thể. Sau đó, đại tướng cho lệnh đóng doanh trại, quét dọn sạch sẽ rồi đứng trước viên môn chờ đợi các tướng lĩnh đến để theo dõi việc thực hiện giờ giấc của họ. Người đến trước giờ đã định thì khen thưởng, kẻ đến sau giờ ấn định thì xử chém. Như thế ba quân ở gần, xa đều khẩn trương đến dự, cùng nhau sống mái với quân thù”.

Thiên thứ 2: VŨ PHONG[sửa]

Võ Vương hỏi Thái Công: “Phàm việc dùng binh, điều cốt yếu là phải có vũ xa, kiêu kị, tuyển chọn từng trận mà đánh, thấy có thể đánh được thì đánh. Vậy thế nào là có thể đánh được?”.

Thái Công đáp: “Phàm muốn đánh thì nên xem xét rõ ràng 14 biến động của địch. Thấy rõ được việc biến thì đánh ngay, như thế địch sẽ thất bại”.

Võ Vương nói: “Có thể cho nghe 14 biến động đó chăng?”

Thái Công đáp:

“ – Mới tụ tập thì có thể đánh.

– Người và ngựa chưa ăn thì có thể đánh.

– Thiên thời bất thuận thì có thể đánh.

– Chưa nắm vững địa hình thì có thể đánh.

– Bỏ chạy thì có thể đánh.

– Không phòng bị thì có thể đánh.

– Mỏi mệt thì có thể đánh.

– Tướng lìa xa sĩ tốt thì có thể đánh.

– Vừa vượt qua đoạn đường dài thì có thể đánh.

– Đang vượt sông thì có thể đánh.

– Đang bối rối thì có thể đánh.

– Đang đi trên đường hẹp có thể đánh, ngăn trở khó khăn thì có thể đánh.

– Đang rối loạn thì có thể đánh.

– Lòng dạ hoang mang thì có thể đánh”.

Thiên thứ 3: LUYỆN SĨ[sửa]

Võ Vương hỏi Thái Công: “Huấn luyện quân lính như thế nào?”.

Thái Công đáp: “Trong quân ngũ có hạng người dũng cảm, mạnh khoẻ không sợ chết và vui vẻ khi bị thương, xếp hạng người này vào một tốt gọi là lính dám chém giết.

– Có hạng người nhuệ khí cường tráng, dũng mãnh, xông xáo, xếp hạng người này thành một tốt gọi là lính phá trận.

– Có hạng người múa kiếm dài tuyệt vời, sử dụng kiếm như múa, xếp hạng người này vào một tốt, gọi là lính anh dũng tinh nhuệ.

– Có hạng người sức lực to lớn, bền bỉ chống cự địch liên tục, có sức mạnh phá vỡ chuông trống, huỷ diệt cờ xí địch, xếp hạng người này thành một tốt, gọi là lĩnh dũng mãnh.

– Có hạng người vượt nổi chỗ cao, chạy được đường xa, nhẹ chân chạy giỏi, xếp hạng người này thành một tốt, gọi là lính nhanh như cướp.

– Có hạng người khi vương thần thất thế, quyết khôi phục để lập công, khôi phục giang sơn, xếp hạng người này lại một tốt, gọi là lính quyết chiến đấu đến cùng.

– Có hạng người là con em của các vị tướng tử trận, nên quyết trả thù cho vị tướng đó, xếp hạng người này lại một tốt, gọi là lính cảm tử.

– Có hạng người chỉ sống nương tựa và bị đày đoạ bởi kẻ khác, nên muốn nhập ngũ để nêu cao thanh danh, hạng người này xếp thành một tốt, gọi là lính khích lệ.

– Có hạng người bần cùng quẫn bách, nên phẫn nộ nguyện gia nhập quân ngũ để toại lòng hả dạ, xếp hạng người này thành một tốt, gọi là lính bất tử.

– Có hạng người phạm tội, nhưng đã hết hạn, giờ gia nhập quân ngũ để rửa sạch nỗi nhục, xếp hạng người này thành một tốt, gọi là lĩnh may mắn được tuyển dụng.

– Có hạng người có tài nghệ hơn người, có khả năng gánh vác đồ đạc nặng nề đi xa, hợp hạng người này thành một tốt , gọi là lính sẵn sang chờ lệnh.

Sự sắp xếp và tập luyện các hạng quân này không thể không xét kĩ”.

Thiên thứ 4: GIÁO CHIẾN[sửa]

Võ Vương hỏi Thái Công: “Hợp đông đủ ba quân, nếu muốn sĩ tốt thao luyện về đạo giáo chiến thì phải làm thế nào?”.

Thái Công đáp: “Phàm thống lĩnh ba quân có hiệu lệnh của trống chiêng khiến quân sĩ chỉnh tề. Vị tướng phải nói cho quân sĩ quán triệt ba điều lệnh về thao diễn ,ăn ở và phép biến đổi của cờ xí. Phương pháp dạy chiến đấu là: Một người học đánh thành thạo thì dạy cho mười người, mười người học thành thạo rồi dạy cho trăm người, trăm người học nên thì dạy cho ngàn người. Vạn người nên thì dạy cho ba quân. Phép đại chiến khi học thành thạo thì tập hợp thành triệu người, nên có thể trở thành đại binh lập uy trong thiên hạ”.

Võ Vương nói: “Thực là hay vậy”

Thiến thứ 5: QUÂN BINH[sửa]

Võ Vương hỏi Thái Công: “Lấy xe đánh với quân bộ thì một xe đương đầu nổi với mấy quân bộ, mấy quân bộ đương đầu nổi với một xe, lấy quân kị đánh với xe, thì một xe đương đầu với mấy kị, mấy kị đương đầu nổi với một xe?”

Thái Công đáp rằng: “Xe là vây cánh của quân. Xe dùng để đánh phá những trận địa kiên cố của địch và dùng làm phương tiện lúc thua chạy. Kị dùng để dò xét tình hình, xếp viện cho quân bại trận, cắt đứt đường tải lương của quân giặc. Cho nên nếu xe và kị chưa giao chiến với địch thì một xe không thể đương đầu đươc với một quân bộ. Tuy nhiên nếu quân đông lập thành trận địa thì ở vị thế dễ dàng một xe sẽ đánh được 80 quân bộ, 80quân bộ sẽ đánh được một xe. Một kị sẽ đánh được 8 quân bộ, 8 quân bộ đánh được một kị. Một xe đánh được 10 kị, 10 kị đánh được một xe. Nếu ở địa thế hiểm trở, thì một xe địch được 40 quân bộ, 40 quân bộ địch được một xe. Một kị địch được 4 quân bộ, 4 quân bộ địch được một kị. Một xe địch được 6 kị, 6 kị địch được một xe. Xe và kị là binh khí mạnh trong quân đội. 10 xe có thể đánh bại ngàn người, trăm xe đánh bại vạn người, 10 kị đánh bại trăm người, trăm kị đánh bại ngàn người. Đó là con số rât lớn”.

Võ Vương hỏi: “Số lượng sĩ quan chỉ huy xe, kị và cách bày trận phải như thế nào?”

Thái Công nói: “Số sĩ quan chỉ huy xe thì cử 5 xe đặt một trưởng trông coi, 10 xe đặt 1 lại, 50 xe đặt một suất, 100 xe đặt một Tướng. Cách đánh bằng xe nơi thế đất dễ dàng thì cứ 5 xe xếp thành một hang ngang, dài 40 bộ. khoảng cách giữa hai xe là 10 bộ, khoảng cách hai đội là 60 bộ. Đánh ở địa thế hiểm trở thì xe phải di chuyển theo đường xa. Cứ 10 xe lập thành 1 tụ, 20 xe lập thành một đôn, trước sau cách xa 20 bộ, hai bên tả hữu cách nhau 20 bộ. khoảng cách hai đội là 36 bộ, cứ 5 xe đặt một Tướng trông coi, ngang dọc cách nhau 2 dặm, khi di chuyển cần giữ nguyên vị trí. Về số lượng sĩ quan trông coi kị thì 5 kị đặt một trưởng, 10 kị đặt một lại, trăm kị đặt một suất, 200 kị đặt một Tướng trông coi. Cách đánh ở thế đất dễ dàng thì 5 kị xếp thành một hàng trước sau cách khoảng 10 bộ, tả hữu cách 2 bộ, khoảng cách 2 đội 2 bộ, 30 kị lập thành một đồn, 60 kị lập thành một bối, 10 kị đặt một lại trông coi, ngang dọc cũng cách xa 100 bộ, khi di chuyển đều phải giữ nguyên vị trí”.

Thiên thứ 6: VÕ XA SĨ[sửa]

Võ Vương hỏi Thái Công: “Việc tuyển xa sĩ phải làm sao?”

Thái Công đáp: “Phép tuyển xa sĩ thì nên chọn người dưới 40 tuổi trở xuống, cao từ thước rưỡi trở lên, chạy nhanh có thể đuổi kịp loài ngựa, đồng thời có thể di chuyển nhanh chóng tới trước, sau, phải, trái, trên cao, dưới thấp và xoay vòng hay quấn được cờ xí trong người, có thể giương nổi loại nỏ nặng 8 thạch bắn tới trước, sau, trái, phải, mọi mặt đều tiện cho việc thực hành, được gọi là “lĩnh võ xa”. Hạng người này không thể không hậu đãi”.

Thiên thứ 7: VÕ KỊ SĨ[sửa]

Võ Vương hỏi Thái Công: “Việc tuyển kị sĩ phải làm như thế nào?”.

Thái Công đáp: “Cách tuyển kị sĩ là chọn người dưới 40 tuổi cao từ 7 thước 50 trở lên, than thể tráng kiện, nhanh nhẹn hơn người. Có khả năng cưỡi ngựa bắn nỏ đi các mặt tiền, hậu, tả, hữu và xoay vòng, tiến thoái vượt qua hào rạch: leo trèo đồi núi, mạo hiểm xông vào vùng hiểm trở, ngăn được đầm rạch lớn, điều khiển được kẻ địch mạnh, nhiễu loạn được đám đông. Loại người này được gọi là “kị sĩ” không thể không hậu đãi.”

Thiên thứ 8: CHIẾN XA[sửa]

Võ Vương hỏi Thái Công: “Phép đánh bằng chiến xa như thế nào?”

Thái Công đáp: “Quân bộ phải biết trước biến động, xe phải biết trước địa hình, kị phải biết trước đường xa lạ. Phàm tử địa của xe thì có mười và thắng địa của xe chỉ có tám mà thôi”.

Võ Vương hỏi: “Mười điều tử địa là gì?”

Thái Công đáp:

“ – Đi được mà không về được là tử địa của xe

– Vượt được đất hiểm trở, lấn được địch mà đi xa là kiệt địa của xe.

– Tiến dễ dàng, sau hiểm trở là khốn địa của xe.

– Bị rơi vào vùng hiểm trở khó mà thoát ra ngoài là tuyệt địa của xe.

– Lúc xe lọt vào đầm trạch, bùn đất dính đầy xe là lao địa của xe.

– Bên trái hiểm trở, bên phải dễ dàng, phía trên có gò đống mà xe phải leo dốc là nghịch địa của xe.

– Lúc xe đi qua bãi ruộng cỏ mênh mông, phải vượt qua các đầm, ao sâu kín là thất địa của xe.

– Xe ít đường di chuyển dễ dàng lại không đương đầu nổi với quân bộ là bại địa của xe.

– Phía sau có hào lạch, bên trái có sông sâu, bên phải có đồi núi cao là hoại địa của xe

– Xe di chuyển gặp lúc mưa dầm dề ngày đêm, mà luôn phải di chuyển, đường sá ngập lụt, vỡ lở, đằng trước không thể tiến, đằng sau không giải toả được, đó là hảm địa của xe.

Mười điều trên là tử địa của xe. Nếu tướng vụng về thường bị bắt, tướng sáng suốt sẽ tránh khỏi”.

Võ Vương hỏi: “Tám điều thắng của xe thì thế nào?”

Thái Công đáp:

“ – Phía trước phía sau trận địa địch chưa ổn định thì phải tiến công ngay.

– Cờ xí rối loạn, người và ngựa xáo trộn thì tiến công ngay

– Sĩ tốt chạy tán loạn, ở cả phía trước, sau, phải, trái thì phải tiến công ngay.

– Trận địa không kiên cố, sĩ tốt hai mặt trước sau dựa dẫm lẫn nhau thì tiến công ngay.

– Quân địch đi đến đằng trước thì ngờ vực, đến đằng sau thì hoảng hốt thì tiến công ngay.

– Ba quân sợ hãi, buộc lòng nổi dậy một cách bất đắc dĩ thì tiến công ngay

– Đánh ở địa thế dễ dàng mà trời tối, không giải vây được thì tiến công ngay.

– Quân di chuyển đường xa, nên về muộn, trời tối mới cắm trại, quân lính hoang mang thì tiến công ngay.

Tám điều trên là đất thắng của xe. Vị tướng thông suốt mười điều hại, tám điều thắng thì dù địch có dùng hàng ngàn xe, hàng vạn kị bao vây tiến công thì trong vạn trận đánh, vị tướng đó cũng sẽ chiến thắng”.

Thiên thứ 9: THIÊN KỴ[sửa]

Võ Vương hỏi Thái Công: “Phép đánh bằng chiến kị như thế nào?”.

Thái Công đáp: “Đánh bằng chiến kị thì có mười lúc thắng, chin lúc bại”.

Võ Vương hỏi: “Mười lúc thắng ra sao?”

Thái Công đáp:

“ – Lúc địch mới đến, thế trận chưa định hẵn, hai cánh quân tiền và hậu chưa hỗ trợ nhau được, ta đánh phá các chiến kị phía trước, đồng thời đánh hãm hai mặt tả hữu thì địch sẽ chạy ngay.

– Lúc địch dàn trận đã chỉnh tề, kiên cố, sĩ tốt quyết đấu đến cùng, thì quân kị của ta phải sát cánh bên nhau, hoặc đuổi đi, hoặc đuổi lại, hành động nhanh như gió, mạnh như sấm sét, ngày cũng như đêm, thay cờ xí đổi y phục thì quân ta ắt sẽ thắng.

– Lúc địch bố trí trận địa chưa kiên cố, sĩ tốt chưa muốn đánh thì ta lấn hai mặt tiền, hậu của chúng, đón hai mặt tả hữu mà đánh, địch sẽ hoảng sợ.

– Lúc chiều về quân địch muốn về nghỉ ngơi, quân lính hoang mang, ta kẹp sát hai bên hông của chúng tiến đánh nhanh mặt sau, lấn chiếm cửa thành luỹ khiến địch không có lối vào, địch ắt sẽ bại ngay.

– Lúc địch không có địa thế hiểm trở để phòng thủ kiên cố thì quân ta xâm nhập đuổi đánh chúng, cắt đứt đường tiếp tế lương thực thì quân địch sẽ bị đói.

– Lúc ta đóng ở vị thế bằng phẳng dễ dàng, bốn mặt trông thấy địch, ta dùng xa kị để đánh phá, địch sẽ rối loạn ngay.

– Lúc địch tháo chạy, sĩ tốt tán loạn, ta xuất binh và đánh kẹp hai bên hông chúng, hoặc chặn hai mặt tiền hậu, thì sẽ bắt được tướng địch.

– Lúc chiều xế địch trở về, quân chúng đông nên rối loạn, ra lệnh cho 10 kị của ta lập thành đội, trăm kị hợp thành đồn, 5 xe lập thành một tụ, 10 xe hợp thành một quần, cắm cờ xí nhiều nơi, hoặc cắt đứt liên lạc giữa hai mặt tiền, hậu của chúng thì sẽ bắt sống được tướng địch.

Đó là mười lúc thắng của quân kỵ”.

Võ Vương hỏi: “Chín điều bại như thế nào?”

Thái Công đáp:

“- Phàm đánh phá địch bằng quân kị mà không thể phá trận, địch sẽ vờ thua chạy rồi dùng xa kị phản kích mặt sau của ta. Đó là bại địa của quân kị.

– Lúc đuổi theo quân địch qua vùng hiểm trở, truy kích liên tục. Địch sẽ phục ở hai bên hông ta, đồng thời cắt đứt mặt sau của ta. Đó là vi địa của quân kị.

– Lúc có đường đi mà không lối về, không có ngõ ra, gọi là bị vây hãm vào gầm trời, dồn vào tử huyệt. Đó là tử địa của quân kị.

– Lối vào thì hẹp, lối ra thì xa, địch yếu cũng có thể đánh được ta mạnh, địch ít cũng có thể đánh được ta đông. Đó là mạt địa của quân kị.

– Hai bên tả hữu có nước, mặt trước gò lớn, mặt sau núi cao, khi đánh nhau với địch quân ta ở giữa hai dòng nước, địch ở bên ngoài và trong. Đó là gian địa của quân địch.

– Địch cắt đường tải lương của ta, đi mà không về được. Đó là khốn địa của quân kị.

– Khi tiến vào nơi nước đục, đầm ao, tiến thoái lưỡng nan. Đó là hoạn địa của quân kị.

– Bên tả có mương sâu, bên hữu có đồi núi cao thấp đều như bình địa, tiến thoái đều làm mồi cho địch. Đó là hãm địa của quân kị.

Chín điều trên là tử địa của quân kị, tướng sáng suốt thì có thể thoát khỏi. Tướng u muội thì sẽ bị thảm hại vậy”.

Thiên thứ 10: CHIẾN BỘ[sửa]

Võ Vương hỏi Thái Công: “Nguyên tắc đánh nhau giữa bộ binh và xa kị như thế nào?”.

Thái Công đáp: Nếu bộ binh và xa kị đánh nhau thì bộ binh phải dựa vào gò đống hiểm trở, dùng binh khí dài, cung nỏ mạnh đi trước, binh khí ngắn, cung nỏ yếu đi sau, lúc tiến lúc dừng. Xa kị của địch tuy đông, nhưng khi đến đã gặp trận tuyến kiên cố và đánh nhanh ở phía sau có quân tài giỏi và cung nỏ mạnh sẵn sang chống trả”.

Võ Vương hỏi: “Ta không có gò đống, cũng không có địa thế hiểm trở, khi địch kéo nhiều quân đến, xa kị đánh kẹp hai bên hông ta, đón đánh hai mặt tiền và hậu của ta, quân ta khiếp sợ, thua chạy tán loạn thì phải làm sao?”.

Thái Công đáp rằng: “Ra lệnh cho sĩ tốt ta đóng hàng rào gỗ, chông gai, đặt đội trâu ngựa đánh xông trận bốn mặt. Khi thấy xa kị địch sắp đến thì cho quân chôn chông gai, quốc đất thành hố sâu và rộng khoảng 5 thước (gọi là lồng) vòng qua sau, rồi cho người cầm hàng rào gỗ chặn xe địch để làm luỹ. Nếu xe chúng chia làm hai theo mặt trước và mặt sau ta mà lập đồn thì quân tài giỏi và cung nỏ mạnh của ta sẵn sàng trấn thủ hai bên hông, tả và hữu. Sau đó ra lệnh cho quân ta đánh nhanh, đánh liên tục không ngừng”.

Võ Vương nói: “Thật là hay vậy”.

Tôn Tử binh pháp[sửa]

Tôn Tử binh pháp là một quyển sách binh pháp danh tiếng được soạn thảo bởi Tôn vũ một nhà quân sự tài ba danh tiếng thời cổ đại . Ngoài Tôn tử binh pháp còn có 36 kế mưu , 4 phương pháp làm chủ trong tác chiến

Tôn Vũ tên chữ là Trường Khanh, sinh năm 545 TCN, tức năm Chu Linh Vương thứ 27, Tề Cảnh Công năm thứ 3 ngày 28 tháng 8, người Lạc An nước Tề.[4] Vì nổi loạn nên gia đình phải chạy đến La Phù Sơn ở ngoại thành Cô Tô là kinh đô của nước Ngô, cầy cấy dệt cửi để sinh sống, để ông tâm nghiên cứu binh pháp. Thời gian này Tôn Vũ với Ngũ Tử Tư (trọng thần nước Ngô) kết thành mối quan hệ bằng hữu gắn bó. Ngũ Tử Tư liền tiến cử Tôn Vũ với Ngô vương. Tôn Vũ dâng 13 chương binh pháp lên Ngô vương là Hạp Lư, được Ngô vương rất tán thưởng, Tôn Vũ dùng ngay các cung nữ để diễn tập binh pháp, chém mỹ nhân để thị uy, khiến Ngô vương rất nể vì, lệnh cho làm thượng tướng quân, rồi phong làm quân sư. Tôn Vũ sau đó cùng với Ngũ Tử Tư trợ giúp Ngô vương cải cách chính sự, tăng cường quốc lực.[5]


Kế sách[sửa]

Tác chiến[sửa]

Mưu công[sửa]

Hình[sửa]

Thê[sửa]

Hư thực[sửa]

Quân tranh[sửa]

Cửu biến[sửa]

Hành quân[sửa]

Địa hình[sửa]

Cửu địa[sửa]

Hỏa công[sửa]

Gián điệp[sửa]

36 kế mưu[sửa]

1. Dương đông kích tây (Đánh lạc hướng đối phương)[sửa]

Kế "Dương đông kích tây" là reo hò giả vờ như thật sự đánh vào phía đông, nhưng chủ yếu lại đánh vào phía tâỵ Trong tất cả mọi vấn đề của xã hội, từ chiến trường, thương trường, chính trường cho đến tình trường; nếu muốn điều này nhưng lại giả làm điều kia, nói điều này mà làm điều nọ, ấy là "Dương đông kích tây" vậỵ Kế này mờ ảo vô song. Nó rất khó biết, khó đoán, bị đánh bất ngờ. Kế này nhằm chuyển mục tiêu để lừa dối đối phương, khiến cho địch sơ ý, lừa lúc bất ý tấn công kẻ không chuẩn bị.

Có nhiều cách thức để thực hiện kế này, như:

- Tạo tin đồn. - Làm rối tai rối mắt địch.

- Buộc đối phương lo nhiều mặt.

- Mê hoặc ý chí của địch. - Nghi binh.

- Làm phân tán lực lượng đối phương.

- Làm yếu lực lượng đối phương, lực lượng phòng vệ địch.


Nguyên tắc của " Dương đông kích tây" là bí mật và chủ động. Bị động coi như phải chịu sự khống chế của địch. Điều kỵ khi dùng kế " Dương đông kích tây" là để lộ cơ. Lộ cơ là mất hết khả năng phòng bị, chuẩn bị. Dù là trên chiến trường, thương trường hay chính trường cũng đều phải giữ bí mật và nắm được thế chủ động.

2. Điệu hổ ly sơn (Dụ hổ ra khỏi rừng)[sửa]

Kế "Điệu hổ ly sơn" là nhử, dụ hay khuấy động làm cho con hổ ra khỏi rừng. Kế "Điệu hổ ly sơn" có hai lối: Một là nhử hổ ra khỏi rừng để dễ dàng giết hổ. Hai là đuổi hổ đi để dễ bắt giết những loại hồ ly vẫn dựa oai hổ mà hoành hành.

3. Nhất tiễn hạ song điêu (Một mũi tên hạ hai con chim)[sửa]

Kế "Nhất tiễn song điêu" là dùng một mũi tên bắn chết hai con chim. Ý của mưu kế này là dùng sức lực tối thiểu để đạt đến hiệu quả tối đa.

4. Minh tri cố muội (Biết rõ mà làm như không biết)[sửa]

Kế "Minh tri cố muội" là biết thật rõ chuyện đấy, nhưng làm ra vẻ không biết gì. Với người xưa, đây là một triết lý xử thế rất cao, mục đích lại ẩn trốn tất cả những tiếng thị phi nghi hoặc, nhưng theo nghĩa mưu kế, nó là một thái độ thâm sâu. Cái đức của người quân tử không thể không cho thiên hạ biết, nhưng cái mưu kế của trượng phu không thể không giấu thiên hạ. Tóm lại, biết rất nhiều mà tỏ ra không biết một là kế "Minh tri cố muội" vậy.

5. Du long chuyển phượng (Biến rồng thành phượng)[sửa]

Kế "Du long chuyển phượng" là biến cái này thành cái kia, bên trong là hình rồng đó, nhưng làm cho nó trở thành phượng. Cái kế này rất phổ biến, trong dân gian ta gọi là "Treo đầu dê, bán thịt chó".

6. Mỹ nhân kế (Kế dùng gái đẹp)[sửa]

"Mỹ nhân kế" là dùng gái đẹp để làm xoay chuyển, thay đổi tình thế mà những cái khác không thể thực hiện được. Giai nhân từ ngàn xưa đến nay bao giờ cũng là đề tài chính. Tuy là phái yếu, không thể vác gươm đao mà đánh giặc, nhưng các nàng có thể thắng được bằng đôi mắt biếc và nụ cười xinh đẹp. Có những bức thành kiên cố cả mười vạn quân không hạ nổi, nhưng nó có thể bị sụp đổ bởi ánh mắt mỹ nhân. Sức mạnh của mỹ nhân đặc biệt là có ảnh hưởng đối với người anh hùng, người có quyền thế.

7. Sấn hỏa đả kiếp (Theo lửa mà hành động)[sửa]

Kế "Sấn hỏa đả kiếp" là lợi dụng lúc loạn để thao túng, lúc tình hình rối ren mà sắp xếp theo ý muốn. Có hai loại "Sấn hỏa đả kiếp": Một là theo lửa để mà đánh cướp. Hai là chính ta phóng hỏa mà đánh cướp.

Theo lửa tức là thừa lúc người ở trong cơn nguy biến mà ta quấy hỗn loạn thêm. Phóng hỏa tức là chính ta gây ra sự hỗn loạn mà thực hiện theo ý muốn của ta. Theo lửa hay phóng hỏa cùng đi chung vào một mục đích là đánh địch và đoạt của địch để tạo cơ hội cho ta. Theo lửa thì dựa vào thời cơ sẵn có. Phóng hỏa thì tự ta tạo ra thời cơ. Không thể phê phán theo lửa hay phóng hỏa, cái nào hay, cái nào dở, cái nào tốt, cái nào xấu, vì cả hai giống như một sự biến ảo giữa không khí và nước. Trong sử sách, người ta thấy tay phóng hỏa giỏi là Trương Nghi. Một mình Trương Nghi đã phá tan thế hợp tung bằng cách dối Tề, lừa Triệu, dọa Ngụy, thuyết Yên, bịp Sở. Trương Nghi thật là con người có cái lưỡi bằng lửa thiêu đốt cả sáu nước, dựng thành cơ nghiệp thống nhất cho nhà Tần. Khổng Minh tuy là một nhà chính trị lỗi lạc tài tình, nhưng cái thế của ông ngay từ đầu chỉ là cái thế phải theo lửa để gây vốn: Lưu Bị bị Tào Tháo đánh chạy đến cùng đường, Khổng Minh đành tính kế nương nhờ Tôn Quyền rồi ăn theo cuộc chiến tranh Nam - Bắc, ăn theo trận Xích Bích để cướp Kinh Châu. "Sấn hỏa đả kiếp" đòi hỏi một khả năng hành động mau lẹ như con ó bắt mồi.

8. Vô trung sinh hữu (Không có mà làm thành có)[sửa]

Kế "Vô trung sinh hữu" là từ không mà tạo thành có. Thiên hạ không loạn, trật tự không rối thì làm gì có anh hào xuất lộ! Bởi lẽ đó, những anh hào thường được gọi là kẻ "chọc trời khuấy nước". Mục đích của khuấy nước là làm rối beng sự việc lên để dễ bề thao túng. Thủ đoạn của khuấy nước là gây tiếng tăm, tung tiếng đồn, gây xáo trộn rồi dựa vào đó mà thủ lợi. Kế "Vô trung sinh hữu" hình dung là tu hú đẻ nhờ, tổ thì chim khác làm, nhưng con tu hú cứ đến đặt trứng của nó vào đó, rồi lại nhờ loài chim khác ấp trứng luôn, khi trứng nở thành chim, tu hú con bay về với bầy tu hú.

9. Tiên phát chế nhân (Ra tay trước để chế phục đối phương)[sửa]

"Tiên phát chế nhân" là ra tay trước để dành chiếm ưu thế, để đoạt lợi, để bắt lấy sự chiến thắng. Kế "Tiên phát chế nhân" là không nói quá xa, viễn vông, mà phải nhìn vào thực tế gần nhất. Các vụ xảy ra trong lịch sử như: Lý Thế Dân tại Huyền Vũ Môn, Võ Tắc Thiên phế lập Lư Lăng Vương, Ung Chính cướp Bảo Tòa, Từ Hi độc sát Quang Tự, Gia Cát Lượng lấy đất Quang Trung... Tất cả đều là áp dụng thủ đoạn "chớp nhoáng" không cho địch kịp trở tay, không cho dư luận phản ứng kịp. Vẫn có câu "Tiên hạ thủ vi cường" là vậy.

10. Đả thảo kinh xà (Đập cỏ làm cho rắn sợ)[sửa]

Kế "Đả thảo kinh xà" là đập vào cỏ, làm động cho rắn sợ.

11. Tá đao sát nhân (Mượn đao để giết người)[sửa]

Kế "Tá đao sát nhân" là mượn dao để giết người, mượn tay người khác để giết kẻ thù của mình. Ngạn ngữ Trung Quốc có câu: “Sát nhân bất kiến huyết, kiến huyết phi anh hùng”. (Giết người không thấy máu, thấy máu không anh hùng). Trên đời dĩ nhiên chưa có kẻ nào chỉ giết người mà thành anh hùng, nhưng cũng hiếm có tay anh hùng nào không giết người. Điểm khác nhau không ở có hay không, mà ở chỗ thông minh hay ngu xuẩn. Tào Tháo mượn Lưu Biểu giết Nễ Hành, mượn lòng quân giết Dương Tu rồi lại được làm cái việc mèo già khóc chuột, thật đáng kể là một tay thông minh, gian hùng.

12. Di thể giá họa (Dùng vật gì để vu khống người ta)[sửa]

Kế "Di thể giá họa" là đem xác chết hay đồ vật gì bỏ vào nhà người khác để giá họa. Kế này thường được dùng bởi khối óc quỷ quyệt thông minh, tự mình không ra mặt mà làm cho đối phương bị hại. Như vậy gọi là "giết người không thấy máu".

13. Khích tướng kế (Kế chọc giận tướng giặc)[sửa]

"Khích tướng kế" là kế chọc giận tướng giặc, làm tướng giặc nổi giận. Nổi giận sẽ mất sáng suốt, thiếu suy nghĩ, không tự chủ được con người mình. Mạnh Tử nói: "Nhất nộ nhi an thiên hạ". Trong đời có nhiều sự việc được thành tựu bằng một cơn giận và cũng có nhiều việc thất bại bởi một cơn giận. Bởi vậy cái kế khích tướng cũng là một trong những diệu kế, nếu đạt ra thì kiến thiên hạ, cùng thì mang họa vào thân. Khích tướng còn là khơi dậy cái hùng khí của người khác để người ấy làm việc cho ta. Đối tượng tốt nhất của kế khích tướng là những người có tính tình bạo tháo hay sẵn sàng phẫn nộ. Tuân Tử bảo rằng: “Lời nói khéo êm như lụa, lời nói ác nhọn như giáo mác”. Thuyết là tiến dẫn lời nói, cái nghĩa căn bản của thuyết làm cho người ta nghe theo. Hiệu quả của thuyết rất lớn. Bởi thế mới có câu: "Thiên hạ tĩnh, nhất ngôn sử chi động. Thiên hạ động, nhất ngôn sử chi tĩnh". (Thiên hạ đang yên lặng, một lời nói làm náo loạn. Thiên hạ đang náo loạn, một lời nói làm lắng dịu). Căn bản mưu thuật của thuyết, theo Tuân Tử có bốn điều: Cơ, dũng, trí, biến. - Cơ: Là xem thời độ thế, nhân lợi thuận tiện. - Dũng: Là quyết đoán nói những điều không ai dám nói. - Trí: Là biết rõ sự tình, tâm lý, giải quyết được thắc mắc, chế phục được người. - Biến: Là biến hóa, trong các trường hợp bất trắc. Mục đích của thuyết có năm điều: - Làm cho người hiểu rõ. - Làm cho người tin tưởng. - Làm cho người đồng tình. - Làm cho người phục. - Làm cho người theo. Đạt được năm mục đích trên thì kể như nắm chắc phần thắng trong tay.

14. Man thiên quá hải (Lợi dụng sương mù để lẩn trốn)[sửa]

Kế "Man thiên quá hải" là lợi dụng lúc trời sương mù mà lẩn trốn, vượt qua hay hành động ngay trong lúc sương mù.

Man thiên, trời u ám không phải hoàn cảnh hoàn toàn bất lợi như một quẻ trong Dịch lý đã nói. Man thiên, không thể ngồi đợi nó tới như sương mù do thời tiết thiên nhiên, mà phải tạo ra nó. Kế "Man thiên" đem áp dụng thực hiện được cả hai mặt: tiêu cực lẫn tích cực. Tích cực là đem ánh sáng đến cho một tình thế mờ mịt. Tiêu cực là lẩn tránh một tai họa, là lợi dụng cơ hội sơ hở của địch để thoát bí. Ở trận Xích Bích, Khổng Minh đã giải quyết vấn đề thiếu tên bắn cho các cung thủ bằng cách lấy mười chiếc thuyền lớn chất đầy rơm, đợi lúc trời sương mù, âm thầm đến trại Tào Tháo nổi trống la hét làm như tấn công. Tào sợ ngụy kế, không dám xông ra, chỉ bắn tên như mưa vào các thuyền rơm. Bằng một đêm đánh trống reo hò, không chết một người, Khổng Minh đã lấy được của Tào Tháo cả trăm ngàn mũi tên.

15. Ám độ trần sương (Đi con đường mà không ai nghĩ đến)[sửa]

Kế "Ám độ trần sương" là bí mật đưa quân qua con đường mà không ai nghĩ rằng ta sẽ đi qua. Kế này áp dụng giữa lúc hai bên đang đấu tranh, chiến đấu với nhau. Mỗi bên đều ra sức giấu mục tiêu thật của mình rồi đưa ra mục tiêu giả mà lừa đối phương. Đây là công việc rất phức tạp, có một quá trình khúc triết. Như "Tôn Tử Binh Pháp" viết: “Việc binh là trá ngụy, có thể mà làm ra vẻ không có thể, dùng đấy mà tỏ ra không dùng, gần giả làm như xa, xa giả làm như gần. Lấy lợi mà dụ, gây rối mà đuổi, thấy khỏe thì tránh. Đầu tiên là làm mọi cách giảm nhược lực đối phương, sau rồi mới tiến hành dự định. Muốn dụng kế này phải là người có tầm nhìn xa hiểu rộng và một khối óc tuyệt vời.

16. Phản khách vi chủ (Đổi vị khách thành vị chủ)[sửa]

Kế "Phản khách vi chủ" là đổi địa vị khách thành địa vị chủ. "Phản khách vi chủ" là trong đấu tranh đang ở vào thế bị động nên phải tìm kế hoạch đến chủ động, khách vốn là địa vị bị chi phối, mọi việc đều do chủ đặt định sắp xếp. "Phản khách vi chủ" là nguyên tắc thường dùng trong đấu tranh. Có chủ động mới khống chế được cục diện. Không có chủ động, không thể thắng lợi.

17. Kim thiền thoát xác (Ve sầu vàng lột xác)[sửa]

"Kim thiền thoát xác” là con ve sầu vàng lột xác. Kế này dùng cho lúc nguy cấp, tính chuyện ngụy trang một hình tượng để lừa dối, che mắt đối phương, đặng đào tẩu chờ một cơ hội khác. Kế "Kim thiền thoát xác" có một phạm vi rất rộng rãi và phổ biến, bất cứ ai ở hoàn cảnh nào cũng có thể sử dụng được.

18. Không thành kế (Kế bỏ trống cửa thành)[sửa]

"Không thành kế" là kế bỏ thành trống, thành bỏ ngỏ. Kế này có hai loại: - Một là lúc tình thế cực khẩn cấp, nguy hiểm như treo trên sợi tóc, buộc phải dùng nghi binh để lừa dối đối phương mà dựa vào đó để trốn thoát. - Hai là rút lui với đầy đủ kế hoạch dụ cho địch quân xâm nhập rồi mới bao vây tiêu diệt. "Không thành kế" thực ra là một cách tạo nghi âm cho đối phương, mục đích là không cho đối phương sớm có một quyết định.

19. Cầm tặc cầm vương (Dẹp giặc phải bắt tướng giặc)[sửa]

"Cầm tặc cầm vương" là dẹp giặc phải bắt chúa giặc. Phương pháp bắt chúa giặc thật thiên biến vạn hóa, không cứ bằng sức mạnh hay bằng trí khôn. Các kế khác như "Điệu hổ ly sơn", "Mỹ nhân kế" hay "Man thiên quá hải" đều có thể dùng cho kế "Cầm tặc cầm vương". Để đối phó với một nhân vật anh hùng, thì dù một quả đạn mà giết hay dùng mỹ nhân kế mà nhử thì cũng như nhau. Nhưng đa số âm mưu cầm vương được hiệu quả bằng kích thích anh hùng và mỹ nhân kế. "Tự cổ anh hùng đa hiếu sắc" là vậy. Việt Vương thua trận rồi, mà chỉ dùng một nàng Tây Thi đã đủ giam cầm Phù Sai. Lý Viên muốn đoạt quyền của Xuân Thân Quân, nên đã cho cô em là Lý Yên sang làm tì thiếp. Đó là những cách gián tiếp để cầm vương.

20. Ban chư ngật hổ (Giả làm con heo để ăn thịt con hổ)[sửa]

Kế "Ban chư ngật hổ" là giả làm con heo để ăn thịt con hổ. Lão Tử nói: “Người cực khôn khéo mà làm ra vụng về”, cũng như câu "đại trí nhược ngu". Người đi săn thường học tiếng heo kêu rồi tự giả làm heo để nhử con hổ. Đối với kẻ thù, ta hãy giả ngu như một con heo, trên bề mặt cái gì cũng thuận chịu, lúc nào cũng cười, lúc nào cũng cung kính để cho địch mất hết nghi âm. Chờ thời cơ chín, tìm thấy chỗ nhược của kẻ thù mà đập đòn sấm sét. - Dùng việc không gì quan trọng bằng bí mật. - Hành động không gì quan trọng bằng thừa lúc bất ý. - Dò xét không gì quan trọng bằng làm cho địch không hay biết. - Bên ngoài ra vẻ loạn mà bên trong rất có cơ ngũ. - Tỏ ra đói mệt nhưng thật là no khỏe. - Làm ra ngu xuẩn nhưng rất tinh tường. Những câu trên đây chính là căn bản lý luận của kế "Ban chư ngật hổ" vậy.

21. Quá kiều trừu bản (Qua cầu rồi phá cầu)[sửa]

"Quá kiều trừu bản" là qua cầu rồi thì phá cầu, ý nói một người sau khi đã thành công, muốn hưởng thụ một mình nên giết hại hoặc xa lánh những người bạn đã đồng lao cộng khổ với mình. Kế "Quá kiều trừu bản" thường trái ngược với kế "Ban chư ngật hổ". Qua cầu cất nhịp là lúc đắc thời đắc thế đem thuộc hạ ra mà khai đạo. Còn giả tiếng heo là kế áp dụng giữa lúc ở vào thế kẹt. Đứng trên lập trường đạo lý thì cất nhịp cầu là một hành động vong ân bội nghĩa. Lưu Bang nổi danh là người qua cầu cất nhịp lớn nhất trong lịch sử. Lúc Lưu Bang hàn vi còn đi ăn cắp gà, thôi thì Bang nói đủ các điều ngon ngọt dễ nghe để tựu chúng lập đảng. Đến khi nên cơ nghiệp rồi, lo việc củng cố quyền thế, Lưu Bang chẳng ngại gì hết, đổi lại thái độ, nghi ghét triều thần. Người thứ nhất mà Lưu Bang lôi chém là Hàn Tín, rồi đến Bành Việt, Anh Bố, bỏ tù Tiêu Hà, Trần Hi, Phàn Khoái. Trương Lương thấy họa chẳng chóng thì chày cũng đến với mình, nên bỏ trốn lên rừng học đạo tu tiên.

22. Liên hoàn kế (Kế móc nối nhau)[sửa]

"Liên hoàn kế" là nối liền với nhau thành một dây xích. "Liên hoàn kế" còn là vận dụng một quyền thuật để tạo phản ứng dây chuyền cho đối phương hoặc gây thành phản ứng nhiều mặt. Mỹ nhân kế là vũ khí phổ biến nhất cần thiết cho việc dùng "Liên hoàn kế". Vì người đẹp ví như nước, anh hùng ví như bùn, nước làm cho bùn nhão ra. Từ ngàn xưa, đa số anh hùng đã vì thương hoa tiếc ngọc nên bỏ lãng nhiệm vụ. Tuy vậy, vẫn phải phân biệt "Mỹ nhân kế" với "Liên hoàn kế". Liên hoàn kế là một hình ảnh của thực tiễn, bất cứ việc gì xảy ra cũng gây thành phản ứng dây chuyền. Việc xảy ra hôm nay cũng không tự dưng mọc ra, nó phải là kết quả dây chuyền từ những sự việc trước.

3. Dĩ dật đãi lao (Lấy khỏe để đối phó với mệt)[sửa]

Kế "Dĩ dật đãi lao" là lấy sự thanh thản để đối phó với hấp tấp, nhọc nhằn; dưỡng sức mà đợi kẻ phí sức. Kế này viết ở trong thiên "Quân Tranh" của bộ "Tôn Tử Binh Pháp": "Lấy gần đợi xa, lấy nhàn đợi mệt" nghĩa là trên chiến thuật phải tìm nắm trước địa vị chủ động để ứng phó với mọi tấn công của địch. Cũng có ý nói nên chuẩn bị chu đáo, dễ dàng lấy cái thế bình tĩnh xem xét tình hình biến hóa mà quyết định chiến lược, chiến thuật. Đợi địch mỏi mệt, tỏa chiết bớt nhuệ khí rồi mới thừa cơ xuất kích. Tôn Tử gọi thế là: "Ẩn sâu dưới chín từng đất, hành động trên chín từng trời". Sử dụng sách lược này đòi hỏi thái độ tuyệt đối trầm tĩnh ứng biến, đo được ý kẻ thù, hoàn cảnh kẻ thù, thực lực kẻ thù. Nếu thời cơ chưa chín thì đứng yên như trái núi. Khi cơ hội vừa tới thì lập tức lấp sông, chuyển bể. Tư Mã Ý ngăn Gia Cát Lượng ở Kỳ Sơn. Chu Du phóng hỏa tại Xích Bích. Tào Tháo đại phá Viên Thiệu nơi Quan Độ. Tạ Huyền đuổi Bồ Kiên ở Phi Thủy. Tất cả đều lấy ít đánh nhiều, thế kém vượt thế khỏe. Tất cả đều là kết quả sử dụng tài tình sách lược "Dĩ dật đãi lao".

24. Chỉ tang mạ hòe (Chỉ vào gốc dâu mà mắng cây hòe)[sửa]

"Chỉ tang mạ hòe" là chỉ vào gốc dâu mà mắng cây hòe. Ý nói vì không tiện mắng thẳng mặt nên mượn một sự kiện khác để tỏ thái độ. 25. Lạc tỉnh hạ thạch (Ném đá vào người dưới giếng) "Lạc tỉnh hạ thạch" là ném đá vào đầu kẻ đã rơi xuống giếng. Rơi xuống giếng lại còn ném đá vào đầu nạn nhân. Nếu đứng trên quan điểm đạo đức Khổng - Mạnh thì phải là hành động không chính nhân quân tử, nhưng nếu coi là một mưu kế thì hành động này lại là một hành động sáng suốt. Căn bản triết lý của "Lạc tỉnh hạ thạch" là chi phối được thì mới chiếm đoạt được, và nhân từ với kẻ thù tức là tàn nhẫn với chính ta. Lưu Bị lúc nào hé miệng cũng nói những điều nhân từ, lúc nào cũng chảy nước mắt, nhưng ông lại là người cũng giỏi thủ đoạn "Lạc tỉnh hạ thạch" nhất. Chẳng vậy mà khi Lã Bố vốn là người làm nhiều ân huệ đối với Lưu Bị, nào việc bắn kích ở Viên Môn, nào việc cho Lưu Bị nương tựa ở căn cứ mình... Đến lúc Lã Bố bị bắt sau khi thất trận Từ Châu, Tào Tháo trong lòng còn đôi chút thương mến muốn dụ dỗ Lã Bố, Lưu Bị ngại Tào Tháo có thêm một mãnh tướng nữa nên đã ghé tai Tào Tháo mà nhắc khéo: “Ông không nhớ chuyện Đinh Nguyên và Đổng Trác hay sao?” (Đinh Nguyên và Đổng Trác đều nhận Lã Bố làm con nuôi, nhưng đều bị chết vì tay Lã Bố. Lưu Bị đã không kể đến ơn nghĩa, lại còn đưa đòn độc "Lạc tỉnh hạ thạch" hạ Lã Bố. Như vậy, Lã Bố làm sao khỏi chết!

26. Hư trương thanh thế (Thổi phồng thanh thế)[sửa]

"Hư trương thanh thế" là thổi phồng thanh thế để cho người ta chóa mắt, nể sợ. Đời Tam Quốc, Tào Tháo tiến xuống Giang Định, rầm rộ cả trăm vạn hùng quân. Tháo định dùng ưu thế tuyệt đối để buộc Tôn Quyền phải hàng phục. Nhưng Khổng Minh trông thấy âm mưu này nên chỉ ba vạn quân với một số mưu kế và trận gió đông đã đánh bại quân Tào. Khi sử dụng kế này, trước hết phải xem mục đích và giá trị của nó thế nào đã, rồi mới định cỡ to nhỏ.

27. Phủ để trừu tân (Bớt lửa dưới nồi)[sửa]

Kế "Phủ để trừu tân" là bớt lửa dưới nồi, ý nghĩa là giải quyết trên căn bản một vấn đề, chủ ý không cho nó phát ra (bớt lửa cho nước khỏi trào). Khi có một việc đã bùng nổ ra rồi thì tìm cách làm cho nó dịu đi, không để nó tiếp tục ác liệt. Chỗ diệu dụng kế "Phủ để trừu tân" là không nghe thấy tiếng, không nhìn thấy hình, vô cùng như trời đất, khó hiểu như âm dương, khiến cho kẻ thù rơi vào kế của mình mà họ không biết. Không kể tình trường, chiến trường hay thương trường, kế "Phủ để trừu tân" lúc nào cũng là kế rất âm độc, lớn mang hiệu quả lớn, nhỏ có hiệu quả nhỏ. Ở tình trường, anh chàng kém vế thường o bế song thân hoặc anh em của đào, hơn là tấn công chính nàng! Ở chiến trường, kế "Phủ để trừu tân" lại càng dày đặc, giăng mắc như mạng nhện.

28. Sát kê hách hầu (Giết gà cho khỉ sợ)[sửa]

"Sát kê hách hầu" nghĩa đen là giết con gà cho con khỉ sợ. Theo truyền thuyết dân gian, con khỉ rất sợ trông thấy máu, cho nên khi người ta muốn dạy khỉ, trước hết họ giết một con gà, bắt con khỉ nhìn thấy đống máu bê bết rồi mới bắt đầu giáo hóa. Lúc bắt khỉ cũng thế, người ta vặn cổ con gà cho nó kêu lên những tiếng ghê rợn, khiến cho khỉ bủn rủn chân tay thì đến bắt. "Sát kê hách hầu" có tác dụng lớn, làm cho các vụ mới nở ra trong trứng nước bị rơi vào cảnh bối rối, sợ sệt.

29. Phản gián kế (Dùng kế của đối phương để quật lại)[sửa]

"Phản gián kế" là dùng người của đối phương lừa dối đối phương, dùng kế địch lừa địch. Tôn Tử nói: “Biết mình là biết thực lực và nhiệm vụ của mình. Biết người là biết thực lực và ý đồ của địch. Biết mình thì tương đối dễ hơn biết người. Cho nên muốn biết người thì phải dùng gián điệp”.

30. Lý đại đào cương (Đưa cây lý chết thay cây đào)[sửa]

"Lý đại đào cương" là đưa cây lý chết thay cho cây đào. Người lớn làm họa, bắt người bé chịu tội thay. Có rất nhiều kẻ tác gian phạm tội lại bắt người khác thế thân.

31. Thuận thủ khiên dương (Thuận tay dắt con dê về)[sửa]

"Thuận thủ khiên dương" theo nghĩa đen là thuận tay dắt con dê về. Sự việc trên đời, thiên biến vạn hóa rất kỳ diệu. Phải biết nắm lấy bất cứ cơ hội nào vụt hiện đến trước mắt, đó là những thâu hoạch, những cái lợi bất ngờ.

32. Dục cầm cố tung (Muốn bắt mà lại thả ra)[sửa]

"Dục cầm cố tung" theo nghĩa đen là muốn bắt cho nên thả ra. Muốn thực hành kế này, phải có một nhãn quan sâu rộng, một tấm lòng nhẫn nại vô song. Những kẻ cấp công cận lợi không bao giờ có đủ tài trí để thi hành nó. Kế "Dục cầm cố tung" không thi hành theo cái nghĩa đen của nó. Kế này nói lên sự mềm dẻo cho mọi chính sách, thứ nhất là chính sách thu phục lòng người, giữ người.

33. Khổ nhục kế (Hành hạ thân xác mình để người ta tin)[sửa]

"Khổ nhục kế" là hành hạ mình, rồi đem cái thân xác bị hành hạ ấy để làm bằng chứng mà tiếp cận với địch để hoàn thành một âm mưu nào đó.

34. Phao bác dẫn ngọc (Ném hòn ngói để thu về hòn ngọc)[sửa]

"Phao bác dẫn ngọc" nghĩa đen là ném hòn ngói để thu về hòn ngọc. Tức là dùng tiểu vật để đoạt một đại vật, như người đi câu vậy. Dân gian thường nói "thả con tép bắt con tôm" cũng là kế này.

35. Tá thi hoàn hồn (Mượn xác để hồn về)[sửa]

"Tá thi hoàn hồn" nghĩa là mượn xác để hồn về. Ý kế này chỉ rằng: Sau khi đã thất bại, buộc phải lợi dụng một lực lượng nào đó để khởi lên thi hành trở lại chủ trương của mình. Tuy nhiên, dùng kế này rất dễ đi vào con đường nguy hiểm, nếu sơ xuất thì tỷ như rước voi về giày mả tổ. Nếu mượn xác mà mượn ẩu thì chẳng khác gì vác xác chết về nhà.

36. Tẩu kế (Chạy, lùi, thoát thân)[sửa]

"Tẩu kế" nghĩa là chạy, lùi, thoát thân. Tại sao kế sau chót cổ nhân lại đặt là "kế chạy"? Lại có câu: "Tam thập lục kế, tẩu vi thượng sách". (Ba mươi sáu chước, chạy là hơn hết!) Bởi vậy kế này liên quan nhiều đến sự thành bại của một công việc lớn. Bất luận là đánh nhau bằng văn hay bằng võ, không ai là có thể thắng hoài. Trong quá trình chiến đấu bao gồm nhiều kiểu thắng, nhiều kiểu bại, lúc ẩn lúc hiện, trong chớp mắt dồn dập cả trăm ngàn biến chuyển. Nếu không ứng phó mau lẹ để tránh những cảnh bất lợi, để nắm mau lợi thế mà tiến tới thắng lợi, thì không phải là nhân tài. Chạy có nhiều phương thức. Bỏ giáp, bỏ vũ khí mà chạy, bỏ đường nhỏ mà chạy tới đường lớn, bỏ đường bộ mà chạy sang đường thủy... Các phương thức tuy không giống nhau nhưng cùng hướng chung đến mục đích là tránh tai họa để bảo đảm an toàn, để bảo toàn lực lượng. "Tẩu kế" không phải là chạy dài. Chạy chỉ là một giải pháp để mà sẽ quay lại. Tinh hoa của kế chạy là giành thời gian, bảo tồn sức khỏe, lực lượng. Rút chạy đến một vị trí mới, cho tư thế vững mạnh hơn, tập trung nỗ lực và củng cố tinh thần, chọn một cơ hội thuận tiện để quật lại, ấy mới thực là "Tẩu kế". Sau hết phải lo đến điểm nguy của kế chạy: Khi chạy, sẽ mất tinh thần, sự việc hoàn toàn lỏng lẻo, mất sự tin tưởng ở xung quanh. Nếu không giải quyết cho chính xác những vấn đề trên thì "tẩu" không còn là một kế hoạch nữa, mà là một sự tan rã vậy! Tôn Vũ đã cầm quân bao nhiêu lần Nghiên cứu về binh pháp Tôn Tử Tôn Tử binh pháp đã nổi tiếng trên thế giới từ khá lâu rồi. Đến nay nó

Ngô Tử binh pháp[sửa]

Ngô Tử binh pháp là một quyển sách binh pháp danh tiếng được soạn thảo bởi Ngô khởi một nhà quân sự tài ba danh tiếng thời cổ đại . Ngô Khởi (chữ Hán: 吴起; 440 TCN - 381 TCN) là người nước Vệ, sống trong thời Chiến Quốc, sau Ngũ Tử Tư và Tôn Vũ, từng làm đại tướng ở hai nước là Lỗ và Nguỵ, làm tướng quốc ở Sở. Ông là một nhà quân sự nổi tiếng, nhà chính trị, nhà cải cách lớn thời Chiến quốc.

Khi ông nắm quyền ở nước nào đều làm cho nước đó trở nên cường thịnh, mở mang bờ cõi, các nước khác không dám đến xâm lược. Tư tưởng về nghệ thuật quân sự của ông trong bộ Binh pháp Ngô Tử rất có giá trị, là một trong 7 bộ binh pháp (Thất đại kỳ thư) nổi tiếng của Trung Quốc, gần như có thể sánh ngang với Binh pháp Tôn Tử. Tuy nhiên, ông là người tham tài, hiếu sát và biện pháp thi hành có phần tàn ác như: giết vợ để cầu quan, tham quyền, thi hành chính sách khắc nghiệt làm các quan lại triều thần cũng như những người trong vương tộc không đồng tình, ghen ghét hãm hại nhiều lần và cuối đời bị quân nổi loạn giết chết.


Mưu đồ việc nước[sửa]

Ngô Tử phục sức theo lối nhà nho đến yết kiến Nguỵ Văn Hầu để bàn về việc binh.

Văn Hầu nói: “Quả nhân không thích việc quân lữ.

Khởi đáp: “Hạ thần nhân vì dò xét xác việc sâu kín, theo dõi các việc từ xưa đến nay, sao nhà vua lại nói những lời trái với lòng mình? Nay nhà vua suốt bốn mùa đều khiến giết trâu bò để lột da đem thuộc, lấy sơn đỏ phết ở ngoài, vẽ những hình xanh đỏ, dùng những da tê, da voi bóng láng, nếu dùng da ấy để mặc vào mùa đông thì không được ấm, mặc vào mùa hè thì không được mát; Vua khiến đặt rèn kích dài hai trượng bốn thước, kích ngắn một trượng hai thước; Vua khiến đặt làm bọc da che bít các cửa, bánh và trục rất thô kệt, lấy mắt để xem thì không được đẹp, cưỡi để đi xem ruộng thì không được nhẹ, không biết vua có thể nào dùng những thứ ấy mà được yên lòng chăng?

Nên làm như thế để chuẩn bị, tới thì danh, hư thì giữ mà chẳng cần đem dùng những thứ ấy cho đúng mực, điều ấy có thể ví như đem gà con đang ấp để đấu với chồn cao, đem cho con đang bú để khêu chọc cọp dữ, tuy là có lòng chiến đấu nhưng thực đưa vào chỗ chết vậy!

Ngày xưa vua họ Thừa Tang chỉ lo tu tức àm phế bỏ việc võ bị cho nên nước bị huỷ diệt, vua họ Hữu Hổ cậy đông ưa mạnh nên xã tắc phải táng vong. Nhà vua sáng suốt xét việc ấy, ắt bên trong phải lo trau dồi văn đức, bên ngoài lo sửa sang việc võ bị. Sức mạnh ngang với địch mà không tiến được thì đáng gọi là nghĩa dũng! Cho đến khi thấy chết thây đã cứng đơ mới buồn thương thì không đáng gọi là nhân ái.

Nhân bởi đó, Văn Hầu tự tay mình trải chiếu, phu nhân bưng chiến mời Ngô Khởi uống rượu tại miếu đường, lập khởi làm đại tướng trấn thủ Tây Hà, đánh nhau với chư hầu bảy mươi sáu trận, toàn thắng được sáu mươi tư trận, còn dư lại thì hoà nhau, mở rộng đất bốn phía, giành lấy ngàn dặm đất, tất cả đều là công của Khởi cả.

Ngô Tử nói: Ngày xưa các bậc vua chúa mưu đồ việc quốc gia, ắt trước hết phải dạy dỗ trăm họ, gần giữ muôn dân.

Có bốn mối bất hoà:

– Trong nước không hoà hợp thì đừng ra quân;

– Trong nước không hoà hợp thì đừng bày trận;

– Trong nước không hoà hợp thì đừng tiến đánh;

– Trong khi đánh không hoà hợp thì không thể quyết thắng.

Bởi thế cho nên bậc vua chúa có đạo lí, nếu muốn sử dụng dân chúng, thì trước hết phải hoà hợp lòng dân rồi sau mới làm được việc lớn. Không dám tin cậy vào mưu kế của riêng mình, ắt phải cáo trước với Trời Đất và tổ tiên nơi tổ miếu, xem việc lành dữ bày ra ở mu rùa coi them thời trời, nếu đều tốt lành cả thì sau mới dấy binh được.

Người dân liền biết nhà vua thương xót mạng sống của họ, buồn tiếc về sự chết choc của họ, nếu được như thế thì bề trên và người dưới cũng gặp hoạn nạn với nhau thì sĩ tốt sẽ cho rằng tiến tới chỗ chết là vinh, lui về cầu sống là nhục.

Ngô Tử nói:

– Đạo là trở về gốc;

– Nghĩa là làm việc, lập công;

– Mưu là lìa bỏ điều hại, chạy tới điều lợi.

– Việc trọng yếu là bảo toàn sự nghiệp giữ gìn sự thành công.

Nếu hành động không hợp đạo, xử sự không hợp nghĩa mà xử sự ra vẻ ta đây là to hơn, cao sang, ắt là phải gặp tai hoạ, bởi thế thánh nhân yên dân bằng đạo lí, trị dân bằng chính nghĩa, sai khiến dân bằng nghi lễ, vỗ về dân bằng nhân ái. Bốn đức tính ấy được trau dồi thì nước nhà hưng thịnh, bị phế bỏ đi thì nước nhà suy vong. Cho nên vua Thành Thang đánh vua Kiệt mà dân nhà hạ vui mừng, vua Võ Vương đời Chu đánh vua Trụ mà dân nhà Ân không cho là trái lẽ. Đó là nhờ khởi binh thuận theo Trời và Người nên mới được như thế.

Ngô Tử nói: Phàm chế định việc nước, sửa trị việc quân ắt là phải lấy lễ nghi để dạy dân, lấy nghĩa vụ để khuyến khích dân, khiến cho người dân biết xấu hổ. Con người ta biết xấu hổ, hễ nhiều làm là đánh, ít làm là giữ; Nhưng:

Đánh mà thắng được là dễ;

Giữ mà thắng được là khó;

Cho nên mới nói rằng: Giữa các nước đánh nhau trong thiên hạ:

– Ai thắng năm lần thì gặp tai hoạ;

– Ai thắng bốn lần thì chịu tệ hại;

– Ai thắng ba lần thì làm bá;

– Ai thắng hai lần thì làm vương;

– Ai thắng một lần thì làm đế.

Thắng nhiều lần mà chiếm được thiên hạ là trường hợp ít có; thắng nhiều lần mà mất thiên hạ là trường hợp thường thấy.

Ngô Tử nói: Phàm việc dấy binh mã có năm cớ:

– Thứ nhất là vì tranh danh;

– Thứ hai là vì tranh lợi;

– Thứ ba là vì chứa ác;

– Thứ tư là vì nội loạn;

– Thứ năm là vì đói kém;

Binh lại có năm danh hiệu khác nhau:

– Thứ nhất là nghĩa binh (binh nghĩa hiệp)

– Thứ hai là cường binh (binh mạnh)

– Thứ ba là cương binh (binh cứng)

– Thứ tư là bạo binh (binh hung dữ)

– Thứ năm là nghịch binh (binh trái ngược)

– Ngăn chặn việc bạo ác, cứu nước nhà trong cơn loạn lạc, đó gọi là nghĩa;

– Cậy đông để đánh người gọi là mạnh;

– Nhân cơn giận mà dấy binh gọi là cứng;

– Bỏ lễ nghĩa mà tham lợi gọi là hung dữ;

– Khi nước loạn, người mệt mà dấy binh đánh người, gọi là trái lẽ.

Năm loại binh ấy đều có phép khắc phục.

– Lấy gặp nghĩa binh thì lấy lễ nghĩa mà khắc phục họ;

– Nếu gặp cường binh thì lấy sự khiêm cung mà khắc phục họ;

– Nếu gặp cương binh thì lấy sự từ tốn mà khắc phục họ;

– Nếu gặp bạo binh thì dùng cách đánh lừa mà khắc phục họ;

– Nếu gặp nghịch binh thì dùng cơ quyền mà khắc phục họ.

Võ Hầu hỏi rằng: Xin được nghe về phép trị binh nuôi người, giữ nước.

Khởi đáp rằng: Ngày xưa bậc quân vương sáng suốt ắt phải lo giữ gìn lễ chế giữa vua và tôi, lo trau dồi nghi thức giữa người trên và kẻ dưới, vỗ về trăm họ, gom trị dân chúng, chiếu theo phong tục mà giao huấn, tìm mời các bậc lương thiện tài năng để phòng bị cho khỏi sai lầm.

Ngày xưa, Tề Hoàn Công chiêu mộ triệu tập được bón văn sĩ tốt mà được thoả chí. Tần Mậu Công đem ba vạn sĩ tốt ra hãm trận mà khuất phục được các lân bang thù địch. Cho nên làm vua một cường quốc ắt phải nuôi người.

– Nếu có những kẻ can đảm, mạnh mẽ thì gom họ lại thành một tốp.

– Nếu có những kẻ hăng hái tiến đánh, cố hết sức để bày tỏ lòng trung dũng thì gom họ lại thành một tốp.

– Nếu có những kẻ có tài trèo cao, vượt xa, lẹ chân chạy giỏi thì gom họ lại thành một tốp;

– Nếu có những tôi tớ cũ của nhà vua bị mất chức, nay muốn lập công với bề trên thì gom họ lại thành một tốp;

– Nếu có những kẻ bỏ thành không giữ, nay muốn rửa vết nhơ ấy thì gom họ lại thành một tốp.

Đó là năm phép để kén chọn quân tinh nhuệ. Kiếm được ba ngàn người như thế, ở trong đánh ra có thể phá vỡ vòng vây, ở ngoài đánh vào có thể hạ thành.

Võ Hầu hỏi rằng: Xin được nghe về phép lập trận cho được vững vàng, phép giữ gìn cho được chắc chắn, phép đánh phá cho được thắng lợi.

Khởi đáp rằng: Nhà vua đứng xem thì còn có thể hiểu cách thức được, há chỉ nghe giảng mà hiểu được sao?

Nếu vua đăt người hiền tài ở trên, kẻ ngu xuẩn ở dưới thì có thể bày trận vững vàng;

Nếu nhân dân sống yên ổn với nhà ruộng của họ, thân yêu quan lại coi sóc họ, thì có thể giữ gìn chắc chắn;

Nếu trăm họ co là vua ta phải lẽ, địch quốc trái lẽ, thì có thể đánh phá thắng lợi.

Thường khi Võ Hầu bàn luận việc nước, mà thấy các quan trong triều không ai thông thái bằng mình được, thì lúc bãi triều vua tỏ vẻ vui mừng.

Khởi tiến lên nói rằng: Ngày xưa, thường khi vua Sở Trang Vương bàn luận việc nước,mà thấy các quan trong triều không ai thông thái bằng mình thì lúc bãi triều Vua tỏ vẻ lo buồn. Thân Công hỏi vua rằng: Vua có vẻ lo buồn, vì sao thế? Vua đáp: Quả nhân nghe rằng đời không bao giờ hết thánh nhân, nước không bao giờ thiếu hiền tài, ai được các bậc ấy làm thầy là người ấy làm Vương, ai được các bậc ấy làm bạn thì người ấy làm Bá. Nay quả nhân là người bất tài, mà các quan trong triều không ai hơn được quả nhân, đó là điều nguy hại của nước Sở vậy vào trường hợp Sở Trang Vương lo buồn mà nhà vua lại vui mừng thì hạ thần phải thầm lo sợ vậy!

Nghe nói thế, Võ Hầu bèn có sắc khen.

Trù liệu đối phó với quân địch[sửa]

Võ Hầu nói với Ngô Khởi rằng: Nay nước Tần hiếp phía Tây nước ta, nước Sở bịt phía Nam nước ta, nước Triệu ép phía Bắc nước ta, nước Tề lấn phía Đông nước ta, nước Yên chặn phía sau nước ta, binh sáu nước đem giữ chặt bốn phía, ta bị kẹt vào thế phá bất tiện, biết lo tính làm sao đây?

Khởi đáp rằng: Phép giữ nước nhà là trước hết phải lấy sự phòng bị làm quý. Nay vua biết phòng bị thì tai hoạ còn xa xăm chưa thể tới được. Hạ thần xin luận về phong tục, tính tình của người dân sáu nước:

Nước Tề bày trận cẩn thận mà không vững bền;

Nước Tần bày trận rời rạc nhưng biết tự đánh;

Nước Sở bày trận chỉnh tề nhưng không được lâu;

Nước Yên bày trận giữ thế thủ nhưng không bỏ chạy;

Tam Tấn bày trận có trật tự nhưng không vận dụng.

Dân Tề tính khí cứng cỏi, nước giàu, vua tôi kiêu căng xa xỉ, nhưng việc săn sóc lê dân rất sơ sài, nền chính trị khoan dung nhưng bổng lộc phân chia không đều, một trận mà hai lòng, phía trước cẩn thận mà phía sau khinh suất, cho nên bày trận cẩn thận mà không vững bền. Phép đánh họ ắt là chia quân ra ba phần mà đánh vào hai hông phải và trái, bám sát theo họ thì có thể phá trận của họ được.

Dân Tần tính khí mạnh mẽ, đất đai hiểm trở nên chính trị nghiêm khắc, sự thưởng phạt đúng đắn, người dân không nhúng nhường, ai ai cũng có lòng chiến đấu, cho nên bày trận rời rạc mà mọi người đều biết tự đánh. Phép đánh họ là trước hết phải bày điều lợi để dẫn dụ họ, sĩ tốt tham đoạt lợi nên rời xa tướng suý, thừa dịp họ khinh suất đuổi theo làm cho ba quân rời rạc, và đặt phục binh chờ cơ hội mà đánh úp thì có thể bắt tướng suý của họ được.

Dân Sở tính khí yếu ớt, đất đai rộng rãi, nền chính trị rối loạn, dân chúng mỏi mệt, cho nên bày trận chỉnh tề nhưng không được lâu dài. Phép đánh họ là ùa đánh vào các đồn trước hết phá tan nhuệ khí của họ. Thình lình rồi đánh, rồi rút lui thật nhanh, làm cho họ khốn đốn vất vã, chớ nên giao tranh với họ, làm như thế thì có thể đánh bại quân họ được.

Dân Yên tính khí thành thực, cẩn thận, thích sự nghĩa dũng, ít mưu mô dối trá, cho nên cố giữ mà không bỏ chạy. Phép đánh họ là đến sát bức bách họ, đánh phá họ rồi bỏ đi xa, cho quân kị chạy vòng ra phía sau họ thật nhanh, làm cho bên địch trên thì nghi ngờ, dưới thì sợ hãi, phải cận thận đề phòng chiến xa và quân kị của ta, như thế tướng của họ phải né tránh ta và ta có thể chận bắt được.

Tam Tấn chính là Trung Quốc, tính tình hoà nhã, nền chính trị bình an, dân chúng đã mệt mỏi vì chiến tranh, đã tập quen việc binh bị, tướng suý bị bạc đãi, bổng lộc ít ỏi, sĩ tốt không có lòng liều chết nên tuy có trật tự mà không sử dụng được. Phép đánh họ là bày trận mà ngăn chận họ, họ đến thì ta chống cự, họ bỏ đi thì ta đuổi theo, cốt làm cho quân đội của họ mệt mỏi, đó là thế đánh.

Thế rồi, trong mỗi đội quân, ắt có những dũng sĩ, đủ sức gánh vác nhẹ nhàng, chân chạy lẹ làng như ngựa rợ Nhung, giật cờ bắt tướng đều có đủ khả năng, nếu được hạng người như thế thì chọn riêng họ ra, thương yêu, quý mến họ, đó gọi là quân mệnh; theo công dụng của họ mà chia ra năm thứ binh: tài giỏi, mạnh mẽ, dẻo dai, mau lẹ, nuôi chí nuốt địch, đều ban them cho họ phẩm tước, để họ quyết thắng, hậu đãi cha mẹ, vợ con họ, tưởng thưởng để khuyến khích họ, trừng phạt để uy phục họ, hạng sĩ tốt ấy có thể lập trận vững bền, giữ nước lâu dài. Nếu biết suy xét điều ấy thì sức đánh của quân ta sẽ tăng gấp bội.

Võ Hầu khen là hay.

Ngô Tử nói rằng: Khi trù liệu đối địch, có tám trường hợp nên đánh ngay mà chẳng cần bói toán:

– Thứ nhất là khi gió lớn, trời lạnh gắt, địch thức dậy sớm để dời binh, phá băng vượt nước, không ngại gian nan.

– Thứ hai là đang ngày hè nóng nực, trời trong vắt không mây, quân địch chịu đói khát rong ruổi, cốt để giành giựt ở nơi xa;

– Thứ ba là địch quân bị kẹt cứng lâu ngày ở một chỗ, lương thực hết sạch, trăm họ oán giận, nhiều kẻ bàn tán việc hoà phục mà cấp trên không ngăn cắm được.

– Thứ tư là địch quân hết sạch tiền của lương thực, củi cỏ thì ít ỏi, trời thì nhiều mây mưa, muốn đi cướp giật để ăn mà cũng không tìm ra chổ nào;

– Thứ năm là địch gặp cảnh sĩ tốt không nhiều, đất nước không tiện lợi, người ngựa bị bệnh tật, các nước láng giềng bốn bên không đến giúp;

– Thứ sáu là địch gặp cảnh đường còn xa mà trời đã tối, sĩ tốt vất vả và lo sợ, mệt mỏi và chưa ăn, đang cởi giáp để nghỉ ngơi.

– Thứ bảy là bên địch, tướng tá ăn ở lạt lẽo, nhỏ nhen, lại sĩ khinh suất, lính tráng không vững vàng, ba quân nhiều lần sợ hãi, quân đội không được giúp đỡ.

– Thứ tám là bên địch bày trận chưa hẳn hoi, dựng dinh trại chưa xong, đi ngược triền dốc, qua nơi hiểm trở, nửa ẩn nửa hiện.

Gặp những trường hợp như thế, ta nên đánh chúng mà chớ nghi ngại gì cả. Có sáu trường hợp phải tránh né địch quân mà không cần xem tốt xấu.

– Thứ nhất là địch có đất đai rộng rãi bao la, nhân dân giàu có, đông đúc;

– Thứ hai là bên địch, người trên biết thương kẻ dưới, ân huệ ban bố đầy rẫy khắp dân chúng;

– Thứ ba là bên địch, sự tưởng thưởng rất tín thực, hình phạt đúng đắn và thi hành đúng lúc;

– Thứ tư là bên địch đánh trận thì thành công, ở nhà thì tề chỉnh, biết sử dụng người hiền năng;

– Thứ năm là địch có quân lính đông đảo, rất tinh tường việc binh giáp;

– Thứ sáu là địch có các lân bang bốn bên trợ giúp, có nước lớn sẵn sang cứu viện;

– Nếu thấy rằng ta không bằng địch về các phương tiện ấy thì nên né tránh mà đừng đánh chúng, đó gọi là: “thấy dễ thì tiến, thấy khó thì lui”.

Võ Hầu hỏi rằng: Ta muốn xem tình trạng bên ngoài của địch mà biết được tình hình bên trong, xem cách chúng tiến lên mà biết rằng chúng muốn dừng lại, để quyết định sự hơn thua. Ngài có thể giảng cho ta nghe được không?

Khởi đáp rằng: Quân địch đến gần, như ra vẻ vô tư lự, cờ xí rối loạn, người ngựa ngược xuôi không ngay ngắn chỉnh tề, nếu gặp trường hợp như thế, một người bên ta có thể đánh mười người bên địch, khiến cho chúng không thể sắp đặt kịp thời đối phó với ta.

Các nước chư hầu chưa tụ hội để giúp nhau, vua tôi của họ chưa hoà hợp, hào luỹ chưa chuẩn bị xong, mệnh lệnh chưa được thi hành, ba quân huyên náo. Họ muốn tiến lên mà không được, muốn lui về mà không dám, nếu gặp trường hợp như thế, một số ít quân ta cũng có thể đạnh bại số nhiều quân địch, một trăm trận cũng không nguy hại.

Võ Hầu hỏi: Nên đánh địch vào những lúc nào?

Khởi đáp rằng: Khi dụng binh nên dò xét để biết quân địch mạnh hay yếu vào lúc nào và ở chỗ nào để đánh chúng vào lúc nguy nan;

– Quân địch đi từ xa mới tới, hàng lối chưa chỉnh tề: nên đánh chúng!

– Quân địch mới bắt đầu ăn chưa sắp đặt sẵn sang: nên đánh chúng!

– Quân địch chạy trốn: nên đánh chúng!

– Quân địch đang làm lụng khó nhọc: nên đánh chúng!

– Quân địch chưa chiếm được địa lợi: nên đánh chúng!

– Quân địch trể nải, chuẩn bị không kịp ngày giờ: nên đánh chúng!

– Quân địch vượt đường dài, mới tới chưa kịp nghỉ ngơi: nên đánh chúng!

– Tướng địch rời xa sĩ tốt: nên đánh chúng!

– Quân địch có lòng sợ hãi: nên đánh chúng!

Gặp những trường hợp như thế, ta chọn sĩ tốt tinh nhuệ để xông tới rồi chia binh tiếp thêm vào, đánh gấp mà chớ nghi ngại gì cả.

Trị bệnh[sửa]

Võ Hầu hỏi rằng: Trong phép dùng binh, cần làm việc gì trước nhất?

Khởi đáp rằng: Trước hết phải biết rõ bốn điều dễ, hai việc lớn, một điều tín thực.

Hỏi: Sao lại gọi như thế?

Đáp: Đó là làm cho đất dễ đi bằng ngựa, ngựa dễ kéo xe, xe dễ chở người, người dễ chiến đấu.

– Biết rõ đất dễ, đất khó thì đất dễ đi bằng ngựa;

– Cung ứng cỏ rơm kịp thời, thì ngựa dễ kéo xe;

– Mỡ và dầu trục xe dư dùng, thì xe dễ chở người;

– Gươm giáo bén nhọn, bào giáp bền bỉ, thì người dễ chiến đấu.

– Tiến lên thì được thưởng lớn, lui về thì bị phạt nặng;

– Thi hành tín thực

Nếu xét làm được những việc ấy thì có thể làm chủ được sự chiến thắng.

Võ Hầu hỏi rằng: Binh lấy gì làm ưu thắng?

Khởi đáp rằng: lấy trật tự làm ưu thắng.

Lại hỏi rằng: Có phải nhờ đông đảo không?

Đáp: Nếu pháp lệnh không sáng suốt, thưởng phạt không tin thực, chiêng đánh không đúng, trống đánh không tới, tuy có trăm vạn binh, dùng được ít gì?

Điều gọi là trật tự có nghĩa là ăn ở theo lễ nghi, cử động có uy vũ, tiến tới thì không ai chống cự nổi, lui về thì không ai đuổi kịp, tiến quân đánh đuổi trúng tiết, tả quân hữu quân ứng biến kịp thời theo hiệu lệnh, tuy ở thế kẹt cũng bày trận hẳn hoi, tuy tản ra mà vẫn còn hàng ngũ.

Cùng hưởng cảnh an vui với họ, cùng chịu cảnh nguy nan với họ, nên sĩ tốt luôn luôn quay quần theo ta mà không bao giờ li tán, có thể sử dụng mãi mà không bao giờ mỏi mệt, nên quân sĩ vào nơi nào thì thiên hạ không chống cự nổi, đó gọi là binh cha con.

Ngô Tử nói rằng: Theo phép hành quân, chớ nên đi đứng trái tiết, chớ nên ăn uống trái thời, chớ làm kiệt sức người và ngựa, đó là ba điều kiện để sĩ tốt dễ thi hành lệnh trên. Sĩ tốt thi hành lệnh trên, đó là nguồn gốc của sự trị an. Nếu đi đứng không đúng tiết, ăn uống không đúng thời, người ngựa mệt mõi không được nghỉ ngơi, đó là nguyên nhân làm cho sĩ tốt không thi hành lệnh trên. Lệnh trên bị khinh rẻ thì khi ở yên bình sẽ rối loạn, khi đánh giặc binh sẽ thất bại.

Ngô tử nói rằng: Khi binh ở chiến trường, đừng vào đất chết, hễ liều chết thì được sống, cầu sống thì phải chết; người tướng giỏi cầm binh cũng giống như ngồi trong thuyền thủng đáy bị nước rỉ vào, hoặc đang nằm ấm trong nhà mà chạy, việc xảy ra thật là cấp bách khiến cho người có trí cũng không kịp mưu tính được gì, kẻ dũng cảm cũng không kịp nổi giận, phải như thế mới có thể ứng địch được. Cho nên có nói rằng: Trong các điều hại của sự dùng binh, sự do dự là nguy hại nhất; tai họa của ba quân sinh ra do sự hồ nghi.

Ngô Tử nói rằng: Người ta thường chết ở chỗ mà mình bất lực, thường thất bại ở chỗ bất tiện cho mình. Cho nên trong phép dùng binh, sự răn dạy phải đứng đầu.

– Một người học đánh, dạy lại thành mười người biết đánh;

– Mười người học đánh, dạy lại thành trăm người biết đánh;

– Trăm người học đánh, dạy lại thành ngàn người biết đánh;

– Ngàn người học đánh, dạy lại thành muôn người biết đánh;

– Muôn người học đánh, dạy lại thành ba quân biết đánh;

– Lấy ta ở gần chờ đánh địch từ xa tới;

– Lấy ta nhàn chờ đanh địch mệt;

– Lấy ta no chờ đánh địch đói;

– Binh ta đang bày viên trận, ta buộc đổi thành phương trận;

– Binh ta đang ngồi, ta buộc đứng dậy đi;

– Binh ta đang đi, ta buộc đứng lại;

– Binh ta đang đi qua trái, ta buộc đi qua phải;

– Binh ta đang quay qua trước, ta buộc đi quay qua sau;

– Binh ta đang phân tán, ta buộc tụ hợp lại;

– Binh ta đang kế hợp, ta buộc giải tán.

Mỗi việc biến dịch ấy đều phải tập tành cho quen thuộc rồi mới sử dụng binh ấy được, đó là phận sự của tướng súy.

Ngô Tử nói rằng: Theo phép dạy đánh thì:

– Người thấp cầm giáo kích;

– Người cao cầm cung nỏ;

– Người mạnh cầm cờ xí;

– Người dạn cầm chiêng trống;

– Người yếu làm việc vặt vãnh và nấu ăn;

– Người trí làm chủ mưu;

– Làng xóm nương nhau;

– Các đội thập và đội ngũ che chở nhau;

– Nghe một tiếng trống thì sắp binh chỉnh tề;

– Nghe hai tiếng trống thì tập trận;

– Nghe ba tiếng trống thì đi ăn;

– Nghe bốn tiếng trống thì làm việc nghiêm chỉnh;

– Nghe năm tiếng trống thì vào hàng;

– Nghe trống và chiêng cùng đánh một lần rồi mới đưa cờ lên.

Võ Hầu hỏi rằng: Ba quân đi đứng há phải có phép tắc sao?

Khởi đáp: Không thể chống với thiên táo (bếp trời), không thể chống với long đầu (đầu rồng). Thiên táo là miệng hang lớn, long đầu là đầu núi lớn, ắt là bên trái có Thanh long, bên phải có Bạch hổ, trước mặt có Chu tước, sau lưng có Huyền Vũ.

Người ở trên được thế chủ động, người ở dưới phải tuân theo thế bị động.

Lúc sắp đánh, phải xem xét gió thổi theo hướng nào. Nếu gió thổi thuận chiều cho ta, thì ta hô lớn và đánh theo chiều gió; nếu gió thổi ngược chiều với ta, thì ta lập vững bền để chờ đánh địch.

Võ Hầu hỏi rằng: Về việc nuôi người và ngựa, phải cho ở chỗ yên ổn, dễ kiếm cỏ, nước, lo liệu việc no đói của chúng cho có chừng mực. Về mùa đông thì cho ở chuồng ấm, về mùa hè thì cho ở chuồng mát, cắt bớt lông bườm để cho thông xuống bốn phía, bịt kín mắt và tai để ngựa khỏi sợ hãi, tập cho quen chạy mau, tập cho quen đi đứng đúng phép, người và ngựa phải gần gũi quen thuộc nhau rồi mới sử dụng được. Các dụng cụ về ngựa xe là yên, cương, dàm và hàm khớp, phải lo cho đủ đầy, bền chắc. Thường thường thì ngựa không trước thì sau, đều bị tổn hại; không tổn hại vì đói thì cũng bị tổn hại vì no. Trời đã tối mà đường còn xa, thì nhiều khi thà để cho người mệt mà cẩn thận chớ cho ngựa mệt, nhờ đó mà ngựa có dư sức để phòng bị trường hợp địch đánh úp ta. Hiểu rõ việc ấy thì tha hồ dọc ngang giữa thiên hạ.

Luận tướng[sửa]

Ngô Tử nói rằng: Ai có tài kiêm văn võ thì có thể làm tướng cầm ba quân; ai giỏi gồm được hai thuật cứng mềm thì có thể coi được việc binh.

Người ta luận tướng, thường xét tính dũng cảm của họ, nhưng tính dũng cảm ấy chỉ đáng coi là một phần nhỏ trong toàn thể đức tính của tướng suý. Người dũng cảm ắt là coi thường sự hợp chiến; coi thường sự hợp chiến mà không biết đâu là lợi ích, chưa phải là điều hay.

Cho nên tướng suý có 5 điều thận trọng:

– Thứ nhất là chỉnh lí;

– Thứ hai là chuẩn bị;

– Thứ ba là quả cảm;

– Thứ tư là giới luật;

– Thứ năm là giản ước;

– Biết chỉnh lí thì trị nhiều người cũng giống như trị ít người;

– Biết chuẩn bị thì đi ra cửa cũng giống như đi gặp địch;

– Có lòng quả cảm thì khi gặp địch, không hề cầu sống;

– Biết giữ giới luật thì dù có hơn thua, cũng giống như mới đánh.

– Có tính giản ước thì pháp lệnh vắn tắt mà không rắc rối. Nhận mệnh lệnh rồi thì không từ nan, dẹp địch xong rồi mới nói chuyện trở về, đó là lễ nghi của tướng suý.

Cho nên từ ngày ra quân, thà chết vinh còn hơn sống nhục.

Ngô Tử nói rằng: Việc binh có 4 binh cơ (bốn việc binh then chốt):

– Thứ nhất là khí cơ;

– Thứ hai là địa cơ;

– Thứ ba là sự cơ;

– Thứ tư là lực cơ;

– Các việc sắp đặt to hay nhỏ của ba quân dù đông tới trăm vạn, cũng đều gom lại để do một người cầm nắm, đó gọi là khí cơ (việc chỉ huy);

– Đường sá chật hẹp, hiểm trở, núi cao chận đường, mười người chấn giữ thì ngàn người không vượt qua được, đó là địa cơ (việc coi đất);

– Giởi việc gián điệp, cho khinh binh đi về, làm li tán quân địch, khiến cho vui tôi họ oán nhau, trên dưới đổ lỗi cho nhau, đó gọi là sự cơ (việc gián điệp, tình báo);

– Xe cộ bền bỉ, thuyền bè tiện lợi, sĩ tốt thiện chiến, ngựa voi tập quen di đứng, chạy nhảy, đó gọi là lực cơ (việc quân nhu và huấn luyện).

Biết rõ bốn việc ấy thì có thể làm tướng.

Tuy nhiên người tướng phải có đủ uy, đức, nhân, dũng để dẫn dắt người dưới, trị yên ba quân, khiến địch sợ hãi, có tài quyết đoán không để hồ nghi, ban lệnh cho thì kẻ dưới không dám làm trái, đến nơi nào thì giặc không dám chống cự. Được tướng ấy thì nước mạnh, bỏ tướng ấy thì nước mất, đó gọi là tướng giỏi.

Ngô Tử nói rằng:

– Dùng chiêng trống chuông mõ là để tai sợ uy;

– Vẫy phất cờ xí là để mắt sợ uy;

– Bày ra các điều cấm chế, hinh phạt là để lòng sợ uy;

– Tiếng làm tai sợ uy, không thể không thanh;

– Sắc làm mắt sợ uy, không thể không sáng;

– Hình phạt làm lòng sợ uy, không thể không nghiêm.

Ba việc ấy không hẳn hoi thì dù có được nước cũng bị địch đánh bại.

Cho nên có nói rằng:

– Tướng vẫy về phía nào, không thể không đi theo phía ấy;

– Tướng đã chỉ tay, không thể không tiến lên mà chết.

Ngô Tử nói rằng: Khi cần tranh chiến, việc cốt yếu là trước hết phải dò xét tướng lĩnh của quân địch, quan sát tài năng của họ, tuỳ theo hình thế mà dùng quyền mưu, thì không vất vã mà lập được công.

– Tướng của địch ngu ngốc mà lại tin người thì ta có thể lừa dối họ để dẫn dụ họ;

– Tướng địch tham lam mà không cầu danh thì ta có thể dùng tiền của để hối lộ;

– Tướng địch cử động không thận trọng mà lại thiếu quyền mưu, thì ta có thể làm cho họ vất vả, lâm cảnh nguy khốn;

– Bên địch người trên giàu có mà kêu căng, kẻ dưới nghèo khó mà oán vọng, thì ta li gián họ;

– Quân địch tới lui không quyết định, sĩ tốt không biết nương tựa vào đâu, ta có thể làm cho họ rung động mà chốn chạy;

– Bên địch, sĩ tốt coi thường tướng suý mà có bụng muốn về, chọn các nơi dễ đi, mở thông các nơi khó đi, ta chờ cơ hội mà đánh chiếm;

– Quân địch dễ tới, khó lui, như thế chúng có thể tiến tới trước( để đánh ta);

– Quân địch khó tới, dễ lui, ta có thể xông tới gần mà đánh chúng;

– Địch đóng quân nơi ẩm thấp, nước chảy không thông, gặp khi mưa dầm, thì sẽ bị lụt lội, chìm đắm;

– Địch đóng quân nơi hoang vu, cỏ gai rậm rạp, gió thường thổi mạnh, ta có thể dùng lửa để đốt chúng;

– Địch ở mãi không đi, tướng sĩ trễ biếng, như thế quân địch không phòng bị, ta có thể âm thầm đến đánh úp chúng.

Võ Hầu hỏi rằng: Hai quân đối mặt nhau, không biết tướng địch như thế nào, ta muốn dò xét tướng của họ, phải dùng phương pháp nào?

Khởi đáp rằng: Nếu mệnh lệnh tầm thường mà tỏ ra dũng cảm, tướng địch tỏ ra coi thường sĩ tốt tinh nhuệ của ta như thế là địch muốn bỏ chạy chớ không muốn đánh chiếm.

Nếu ta thấy địch đi tới, kẻ ngồi người đứng, chính pháp của họ chỉ cốt để trị yên, họ trốn chạy làm ra vẻ không bằng ta, lại thấy điều lợi mà làm như không hay biết gì, tướng địch như thế đáng gọi là tướng mưu trí, không nên đánh nhau với họ.

Nếu quân địch huyên náo, cờ xí rối loạn, sĩ tốt muốn đi thì đi, muốn dừng thì dừng, binh đội tự do đi ngang đi dọc không có khuôn phép, khi trốn chạy thì lo rằng không kịp, khi thấy lợi thì lo không chiếm được, đó là hạng tướng ngu ngốc, dù có nhiều quân, ta cũng vẫn đánh bại chúng được.

Ứng biến[sửa]

Võ Hầu hỏi rằng: Xe bền người tốt, tướng dạn binh mạnh, bỗng gặp địch, sĩ tốt rối loạn mất hàng ngũ, bấy giờ phải làm thế nào?

Khởi đáp rằng: Theo phép đánh thì ban ngày phất cờ, xí, phan để làm hiệu lệnh, ban đêm dùng chiêng, trống, kèn, sáo để làm hiệu lệnh; phất qua trái thì đi qua trái, phất qua phải thì đi qua phải, đánh trống thì tiến tới, đánh chiêng thì dừng lại; kèn thổi một lần thì đi, lần thứ hai thì họp lại; ai trái lệnh thì chem., ba quân phải sợ uy, sĩ tốt phải tuân mệnh, như thế thì ta đánh, quân địch không còn mạnh với ta được, trận địch không còn vững chắc với ta được.

Võ Hầu hỏi rằng: Nếu địch đông, ta ít, phải làm thế nào?

Khởi đáp rằng: Ở đất dễ ta tránh địch, ở đất kẹt ta đón chúng. Cho nên nói rằng:

– Lấy một đánh mười, không đâu tốt bằng đất kẹt;

– Lấy mười đánh trăm, không đâu tốt bằng đất hiểm;

– Lấy ngàn đánh muôn, không đâu tốt bằng đất khó.

Nay ta chỉ có ít sĩ tốt nhưng thình lình ta đánh chuông, nổi trống, thì ở nơi đường kẹt dù có đông quân đi nữa, chúng cũng không khỏi kinh động, Cho nên có nói rằng:

– Dùng quân đông, cần đất dễ;

– Dùng quân ít cần đất hiểm.

Võ Hầu hỏi rằng: Địch có quân đông, đã mạnh lại dạn, dựa vào nơi hiểm trở, nên phải có núi bên trái có sông, hào sâu thành cao, dùng nỏ mạnh để giữ kỹ, lui về như núi dời, tiến tới như gió mưa, lương thực lại nhiều, ta khó mà cầm cự lâu dài với họ, phải làm thế nào?

Khởi đáp rằng: Việc vua hỏi thật là quan trọng! Trong trường hợp ấy không thể dùng sức xe ngựa mà dùng mưu kế của thánh nhân. Thường nên dùng ngàn cỗ xe, một vạn quân kị, dùng quân đi bộ thêm vào, chia ra thành năm đạo quân, mỗi đạo quân đi một đường. Bởi vì năm đạo quân đi năm đường khác nhau nên quân địch hồ nghi không biết ta sẽ đánh vào nơi nào. Nếu địch giữ kỹ, lo cũng cố binh đội, ta phải cho gián điệp đến dò xét cách sắp đặt của họ. Hoặc họ nghe lời ta rút quân mà đi; hoặc họ không nghe lời ta, chém sứ đốt thư, thì chia ra năm đạo mà tiến đánh, đánh thắng thì đừng đuổi theo định, không thắng thì lui về gấp làm ra vẻ bỏ trốn; nếu địch không nghi ngờ mà yên lòng theo ta để đánh gấp, thì ta cho một đạo quân chận đầu, một đạo quân chặn đuôi, rồi cho hai đạo quân ngầm tán quân ra hai phía trái và phải đánh úp vào nơi chúng đóng binh, năm đạo quân cùng đánh, ắt sẽ đươc thắng lợi, đó là phép đánh quân mạnh.

Võ Hầu hỏi rằng: Địch đến gần bức bách ta, ta muốn bỏ đi để tránh chúng mà không có đường, quân ta hết sức sợ hãi, bấy giờ phải làm thế nào?

Khởi đáp rằng: Phép đối phó với chúng là: Nếu ta nhiều quân mà chúng ít quân thì ta chia quân ra đánh để đè bẹp chúng; nếu chúng đông quân còn ta ít quân, thì ta theo một hướng nhất định mà đánh chúng, cứ đánh riết đừng cho lơi lỏng, như thế dù chúng đông quân cũng phải thua ta.

Võ Hầu hỏi rằng: Nếu gặp địch ở chốn hang, lạch, ở chung quanh có nhiều nơi hiểm trở, địch nhiều quân còn ta ít quân, phải làm thế nào?

Khởi đáp rằng: Ở các chốn gò, đồi, rừng, hang, núi cao, đầm rộng, nên đi mau cho qua khỏi, chớ nên nương tựa vào đó. Nếu tại chốn núi cao hang sâu, thình lình gặp địch, ta ắt hẳn trước hết đánh trống reo hò mà xông vào đánh chúng, đem cung nỏ ra trước, vừa bắn vừa bắt chúng, hễ xét thấy chúng rối loạn thì đánh gấp chớ nên nghi ngại gì cả.

Võ Hầu hỏi rằng: Ở bên trái và bên phải đều có núi cao , ở giữa đất rất chật hẹp, bỗng ta gặp quân địch, muốn đánh chúng mà không dám, muốn tránh chúng mà không được, hỏi phải làm thế nào?

Khởi đáp rằng: Đó là trường hợp đánh trong hang núi, tuy nhiều quân cũng vô ích, một ít sĩ tốt tài giỏi của ta cũng có thể đối phó ngang sức với quân địch, ta cho binh mạnh lẹ chân đi trước, cho xe, ngựa nấp ở bốn phía, rồi rút cánh xa địch vài dặm, địch không thấy binh xe ngựa ấy của ta, ắt hẵn bày trận giữ vững, không dám lui tới. Bấy giờ ta mới giăng bày cờ xí ra, đi ra khỏi núi mà đóng dinh, như thế địch phải sợ ta: ta liền đem xe ngựa khiêu chiến, đánh riết đừng cho địch nghỉ ngơi, đó là phép đánh trong hang.

Võ Hầu hỏi rằng: Ta và địch gặp nhau tại chỗ đầm lầy nước lớn, nghiêng bánh ngập càng, hoặc là nay nước cạn, xe ngựa hay thuyền đò, đều không dùng được, tới lui chẳng được, bấy giờ phải làm thế nào?

Khởi đáp rằng; Đó là trường hợp đánh trước tiên, không dùng xe ngựa được, phải dẹp vào một bên. Hãy leo cao nhìn bốn phía để biết hình thế nước như thế nào, xem kỹ vùng nước rộng hẹp sâu cạn như thế nào, rồi sau mới lập mưu kế để chiến thắng. Nếu địch vượt nước, ta chờ địch qua nửa chừng rồi là đánh chúng.

Võ Hầu hỏi rằng: Trời mưa dầm lâu ngày, xe ngựa bị kẹt không dời chuyển được, bốn phía đều bị bao vây, ba quân sợ hãi, phải làm thế nào?

Khởi đáp rằng: Về phép dừng xe, trời mưa ẩm thấp thì nghỉ, trời nắng khô ráo thì dừng, quý nơi cao mà chê nơi thấp. Khi dừng xe nặng, đi đứng đều phải tuân theo đường sá, địch dấy binh ắt hẳn sẽ đuổi theo dấu bánh xe.

Võ Hầu hỏi rằng: Giặc dữ thình lình kéo đến, chiếm đồng ruộng của ta, bắt trâu dê của ta, phải làm thế nào?

Khởi đáp rằng: Giặc dữ kéo đến, ắt lo lắng về cái hoàn cảnh miễn cưỡng của chúng ta, ta bèn giữ kỹ chớ đánh chúng ngay, đến chiều chúng sẽ rút lui, đùm bọc, khiêng dắt nhiều đồ vật; bấy giờ chúng phải sợ sệt, muốn lui về cho gấp, như thế chúng không có lòng chuyên chú chiến đấu, ta bèn đuổi theo mà đánh thì quân địch phải tan vỡ.

Ngô Tử nói rằng: Phép đánh địch vây thành là sau khi hạ được thành ấp, ta vào chiếm cung phủ, sắp đặt lộc trật (tổ chức việc cai trị), tịch thu khí vật của họ; quân ta đến chỗ nào, cấm chúng không được chặt cây, phá nhà, lấy lúa gạo, giết gia súc, đốt kho chứa trữ, để tỏ cho dân chúng rằng quân ta không có lòng tàn nhẫn; bên địch có ai xin ra hàng, ta cũng bằng lòng cho hàng và an ủi họ.

Khích lệ tướng sĩ[sửa]

Võ Hầu hỏi rằng: Thưởng phạt nghiêm minh, riêng việc ấy có đủ để chiến thắng không?

Khởi đáp rằng: Về việc nghiêm minh, hạ thần không dáp cho rằng mình biết đủ hết, tuy nhiên chớ nên trông cậy vào đó. Ban bố hiệu lệnh mà dân thích nghe, dấy động binh mã mà dân ham đánh, đem ra chỗ chiến trường đầu tên mũi giáo mà dân vui lòng liều chết, đó là ba điều mà dân chúa có thể trông cậy.

Võ Hầu hỏi: Muốn được như thế phải làm thế nào?

Khởi đáp: Nhà vua nên cất nhắc những người có công trạng để họ hưởng lộc và khuyến khích những kẻ vô công.

Bấy giờ Võ Hầu sắp ngồi tại miếu đình ba hạng khách tiệc:

– Các quan đại phu, các người có công đầu được ngồi chiếu ăn hàng đầu, được đãi thức ăn uống bậc nhất, thịt tế bậc nhất;

– Các người có công kém hơn được ngồi chiếu hàng giữa, được đãi kém hơn;

– Các người không công được ngồi chiếu ăn hàng sau, không được đãi các thức thượng phẩm.

Tất cả ăn uống xong rồi đi ra. Lại ban thưởng cho cha mẹ, vợ con của các kẻ có công ngay ngoài cửa miếu đường, cũng bằng theo công trạng mà đãi cao thấp khác nhau.

Đối với nhà nào có người chết trận, hàng năm sai sứ giả đến an ủi và ban thưởng cho cha mẹ, để tỏ lòng không quên công lao.

Thi hành việc thưởng công ấp được ba năm thì gặp lúc nước tầng dấy binh xâm phậm đất Tây Hà, sĩ tốt nước Nguỵ nghe được tin ấy, không đợi lệnh trên sai khiến mà đã mặc áo giáp, đội mũ trụ rang sức đánh giặc, số người ấy lên tới vạn người.

Võ Hầu triệu Ngô Khởi đến hỏi rằng: Lời dạy của ngài ngày trước bây giờ đã thi hành được rồi!

Khởi đáp rằng: Hạ thần được nghe rằng người ta có điều hay điều dở, khí có khi thịnh khi suy, xin nhà vua hãy giao cho thần năm vạn kẻ không công, thần xin dẫn họ đi đánh giặc, nếu lỡ ra mà không thắng, thì để cho chư hầu chê cười, và chịu mất quyền hành giữa thiên hạ.Nay khiến một tên tử tù nấp ở nơi đồng hoang, và cho ngàn người theo đuổi nó, thì nó không khỏi trở nên dữ tợn như chim kiêu, như chó sói, bởi có sao? Bởi nó sợ người ta hành động hung dữ mà hại nó vậy. Đó là một người liều mạng đủ khiến cho ngàn người phải sợ hãi. Nay hạ thần lấy năm vạn quân mà làm một tên tử tù để dẫn quân ấy đi đánh giặc, chắc chắn là giặc khó địch lại ta.

Võ Hầu nghe lời, thêm vào năm trăm cỗ xe, ba ngàn quân kị, mà phá được năm mươi vạn quân Tần, đó là nhờ khuyến khích sĩ tốt lập công vậy. Một ngày trước khi giao chiến, Ngô Khởi ban lệnh xuống ba quân nói rằng: Các sĩ tốt của ta đang bị xe ngựa và lính bộ của địch đón đánh, nếu xe của ta không bắt được xe của địch, lính kị của ta không bắt được lính kị của địch, lính bộ của ta không bắt được lính kị của địch, dù có phá được địch cũng đều không có công trạng gì cả. Cho nên đến ngày đánh, mệnh lệnh không rắc rối mà uy vũ làm rung động tất cả thiên hạ.



2. Tam lược (Thái Công Khương Tử Nha);

3. Tư Mã binh pháp (Tư Mã Điền Nhương Tư);

4. Tôn Tử binh pháp (Tôn Vũ Tử);

5. Ngô Tử binh pháp (Ngô Khởi);

6. Uất Liễu Tử (Uất Liễu);

7. Binh pháp Khổng Minh (Võ Hầu Gia Cát Lượng);

8. Tố thư (Hoàng Thạch Công);

9. Đường Thái Tông – Lý Vệ Công vấn đối (Vệ Công Lý Tĩnh);

10. Binh thư yếu lược (Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn);

11. Binh thư yếu lược (tu chỉnh)

12. Hổ trướng khu cơ (Lộc Khê Hầu Đào Duy Từ).


Tố thư (Hoàng Thạch Công)[sửa]

Nguyên Thủy[sửa]

1) Đạo, đức, nhân, nghĩa, lễ, năm điều ấy thuộc về một thể.

2) Đạo là cái đường mà người ta bước theo, sai khiến tất cả vạn-vật không biết do theo đâu mà đi. (Đạo là luật biến hóa chung của vũ trụ, cai quản muôn loài, vạn vật)

3) Đức là cái mà người ta được nơi mình, bao trùm mọi việc, làm cho tất cả đề được như ý muốn của mình (Đức là quyền năng thiêng liêng của các bậc thánh, nhờ đó mà họ làm việc gì cũng dễ thành công)

4) Nhân là điều mà người ta thường mến, là sự có lòng từ bi, thương xót để làm toại lòng muôn loài sinh ra trong trời đất. (có ý nòi rằng lòng nhân thấm nhuần tới côn trùng, cây cỏ)

5) Nghĩa là điều mà người ta nên theo, như là tưởng thưởng điều thiện, trừng phạt điều ác để làm nên việc

6) Lễ là cái qui củ mà người ta theo như là sớm dậy tối ngủ, để thành ra cái luân thường thứ tự của con người.

7) Tín phải đủ để chỉ có riêng một lòng mà thôi, nghĩa phải đủ để người theo mình, đức phải đủ để người mong nhớ nơi xa, tài phải đủ để noi gương người xưa, minh mẫn phải đủ để soi xuống dưới, người có đủ điều kiện trên là bậc anh tuấn.

8) Hạnh phải đủ để làm khuôn phép, trí phải đủ để dứt hiềm nghi, tín phải có để giữ hẹn, liêm phải có để sai khiến, phân phối của cải, người có đủ điều kiện trên là bậc anh hào.

9) Giữ chức vụ mà không bỏ phế, xử sự theo chánh nghĩa mà không đổi lòng, thấy điều hiềm nghi mà không miễn chấp bừa bãi, thấy điều lợi mà không lấy bừa bãi, người có đủ điều kiện trên là bật anh kiệt/]]

Chánh đạo[sửa]

15) Dứt điều thích, ngăn điều muốn để trừ phiền lụy.

16) Dằn điều trái, bỏ việc ác để từ bỏ lỗi lầm.

17) Chê rượu, lánh sắc để khỏi nhuốm dơ.

18) Tránh điều ngờ, xa điều nghi để khỏi lầm lạc.

19) Học rộng, hỏi cặn kẻ để biết nhiều.

20) Làm việc to lớn, nói lời nhỏ nhẹ để sửa mình.

21) Kính cẩn, dè dặt, nhún nhường, tằn tiện để giữ thân.

22) Mưu kế sâu xa để khỏi cùng khốn.

23) Gần gũi người nhân từ, kết bạn với người ngay thẳng để giúp đỡ nhau trong lúc tai nạn.

24) Gần gũi rộng lượng, cẩn thận chu đáo để tiếp đãi người.

25) Bổ nhiệm và sử dụng kẻ tài năng để cho xong việc.

26) Giận ghét kẻ độc ác, đuổi kẻ dèm pha để ngừa loạn.

27) Tìm xưa xét nay để khỏi nghi ngờ.

28) Trước đó sau lường để đối phó các việc bất ngờ gấp rút.

29) Bày đặt ra các việc quyền biến để gỡ rối.

30) Buộc túi, gặp thuận để khỏi tội lỗi

31) Chặt chẽ, vững vàng, để lập công.

32) Chăm lo, hiền lành, để giữ gìn chung cuộc cho toàn vẹn.

Đạo đức[sửa]

33) Về thuật làm việc hết lòng, gắng sức thì chẳng có gì lâu dài bằng rộng mưu.

34) Chẳng có gì yên bằng nhẫn nhục.

35) Chẳng có gì cần trước hơn là tu đức.

36) Chẳng có gì vui bằng mến điều lành.

37) Chẳng có gì mầu nhiệm hơn lòng chí thành.

38) Chẳng có gì sáng suốt bằng cách xét cái thể chất bên trong sự vật.

39) Chẳng có gì khổ bằng mong nhiều.

40) Chẳng có gì tốt bằng biết đủ.

41) Chẳng có gì đáng thương xót bằng tán tinh

42) Chẳng có gì bệnh hơn là sự vô thường (không chắc chắn).

43) Chẳng có gì ngu tối cho bằng tham lam, keo bẩn.

44) Chẳng có gì cô độc bằng ỷ mình.

45) Chẳng có gì nguy hiểm bằng dùng kẻ đáng nghi.

46) Chẳng có gì dễ thất bại bằng có óc riêng rẽ.

47) Chẳng có gì ngắn ngủi bằng của vô nghĩa (lấy bằng cách không chích đáng).

Hành động[sửa]

48) Đem sự sáng suốt mà bày tỏ cho kẻ dưới rõ là ngu tối (Đạo của thánh hiền là trong thì sáng suốt mà ngoài tỏ ra tối tăm Thánh hiền chi đạo nội minh ngoại hối)

49) Có lỗi mà không biết là bị che lấp

50) Mê mà không tỉnh lại là lầm lạc

51) Dùng lời nói mà chuốc lấy thù oán là tự gây tai họa ( làm mà dám nói ra, đó la quyền tại mình mà họa tại người: nói mà không làm được, đó là quyền tại người họa tại mình)

52) Tâm ý và mệnh lệnh đều trái lẽ thì việc sẽ bỏ phế (bế tắc).

53) Nói năng bừa bãi trước rồi ra lệnh sau thì hư việc.

54) Nổi giận mà không có uy tín thì sẽ bị xúc phạm (hoặc mang tội lấn lướt).

55) Ưa sự ngay thẳng mà làm nhục người là mua lấy tai ương.

56) Trừ cái nhục (riêng) cho kẻ mà mình đang dùng là nguy hiểm (Báo thù riêng cho kẻ dưới tay là nguy hiểm)

57) Ngạo mạn đối với các bậc đáng kính (có ba bậc đáng kính : bậc có tuổi tác, bậc có tước vị, bậc có đức hạnh) là việc hung ác xấu xa, bất lợi

58) Bề ngoài thì hợp ý, mà trong lòng thì xa cách, như thế là lẻ loi;

59) Gần gũi kẻ dèm pha, xa cách người trung trực thì bị diệt vong;

60) Gần sắc đẹp mà xa người hiền là ngu tối;

61) Gái đến cửa công thì loạn;

62) Dùng người có lòng tư kỷ để làm việc quan (công ích) thì không chắc chắn;

63) Lấn lướt kẻ dưới để chiếm phần thắng là xâm phạm.

64) Danh mà không hơn thực thì hao tổn ( Thực lực là chỗ nương tựa của thinh danh, thinh danh đem lại uy quyền cho thực lực; nhiều thực lực mà ít thinh danh thì khó thành sự nghiệp, vậy danh phải đi đôi với thực)

65) Sơ sài (Rộng lượng tha thứ đối với mình) đối với mình mà lại trách phạt người thì không thể trị yên

66) Kẻ dày với mình mà mỏng với người thì nên bỏ họ mà đừng dùng.

67) Xét điều lỗi mà vứt bỏ công lao của người thì tổn hại tới quần chúng.

68) Kẻ dưới và người ngoài ai ai cũng khác lòng thì phải luân vong.

69) Đã dùng mà không tín nhiệm thì lạt lẽo. 70) Thưởng mà hẹp hòi thì hỏng việc. 71) Hứa nhiều mà chó ít thì sinh oán. 72) Đã tiếp đón mà lại phản đối thì trái lẽ.

73) Làm ít mà trông mong nhiều thì không kết quả.

74) Sang mà quên hèn thì chẳng lâu. 75) Nhớ lỗi cũ mà vứt bỏ công mới là điều chẳng lành.

76) Dùng người không được chính đáng là điều nguy.

77) Cưỡng bách người mà dùng thì họ chẳng thuận theo.

78) Vì người mà chọn làm quan thì loạn.

79) Mất những điểm mạnh của mình thì trở nên yếu.

80) Sự quyết định chích sách mà ở trong tay kẻ bất nhân thì nguy hiểm.

81) Kế hoạch bí mật mà tiết lậu ra ngoài thì thất bại.

82) Thu vào nhiều mà chi ra ít thì hỏng việc.

83) Dùng của đút lót việc công là ám muội.

85) Nghe điều thiện mà không lưu ý, lại không quên lỗi cũ của người, đó là bạo ngược

86) Đã dùng mà không tin, đã tin mà không dùng, là lộn xộn.


87) Dùng đức mà nuôi người thì họ sẽ tụ tập.

88) Dùng hình pháp để trói buộc người thì họ sẽ phân tán.

89) Công nhỏ mà không thưởng thì không ai chịu lập công lớn.

90) Không bỏ qua oán nhỏ thì oán lớn sẽ sinh ra.

91) Thưởng mà người không phục, phạt mà người không vui chịu thì họ sẽ làm phản.

92) Thưởng cho tới kẻ vô công, phạt cho tới kẻ vô tội là khốc hại.

93) Nghe dèm pha mà vui, nghe can ngăn mà hờn giận, là sẽ thất bại.

94) Thường giữ cái mình sẵn có là yên.

95) Tham của người là tàn hại.

An lễ[sửa]

96) Phúc sinh nhờ chứa thiện, họa sinh vì tích ác.

97) Oán sinh vì không bỏ qua lỗi nhỏ, mối lo hại sinh ra vì không tính trước mưu kế.

98) Đói vì khinh rẻ nghề nông, rét vì lười dệt.

99) Yên (thân) nhờ được người, nguy vì mất kẻ sĩ.

100) Giàu nhờ nghinh tiếp việc xẩy tới, nghèo vì bỏ lỡ thời cơ.

101) Bậc trên hành động vồ thường thì kẻ dưới sẽ sinh lòng nghi kỵ.

102) Khinh lờn bề trên thì sinh tội, lăng nhục kẻ dưới thì họ chẳng gần gũi mến yêu.

103) Bề tôi gần mà không trọng mình thì bề tôi xa sẽ khinh mình.

104) Tự nghi mình thì không tin người, tự tin mình thì không nghi người. 105) Kẻ sĩ có tà tâm thì không có bạn chánh đáng, bề trên mà cong vạy thì kẻ dưới không ngay thẳng. 106) Nước ở cảnh nguy biến thì không có người lành. 107) Mến người sâu xa thì cầu hiền gấp, vui được người hiền thì nuôi người trọng hậu.

108) Nước sắp làm bá chủ thì kẻ sĩ đều về giúp, nước sắp mất thì người hiền đã xa lánh trước.

109) Đất mà xấu thì vật lớn không sanh, nước mà cạn thì cá lớn không lội, cây mà trụi lá thì chim lớn không đậu, rừng mà thưa cây thì thú lớn không ở.

110) Núi mà cao vút thì sẽ đổ, hồ mà đầy nước thì sẽ tràn.

111) Bỏ ngọc giữ đá là có mắt không ngươi, thân dê đội lốt cọp thì chỉ lòe loẹt bề ngoài mà thôi.

112) Cầm áo mà không cầm nơi cổ thì áo sẽ gập xuống, chạy mà không nhìn đất thì sẽ vấp ngã.

113) Cột yếu thì nhà sẽ sập, bề tôi phò tá mà yếu thì nước nghiêng đổ.

114) Chân lạnh thì hại tim, dân oán hận thì hại nước.

115) Núi sắp đổ thì đất đã lở trước, nước sắp suy yếu thì dân đã bị nạn chết.

116) Rễ khô thì cành mục, dân khốn đốn thì nước điêu tàn.

117) Níu theo xe lật thì xẽ bị ngã, ở theo nước mất thì sẽ bị diệt.

118) Xem việc đã thất bại để mà thận trọng, thấy việc sắp thất bại thì phải sợ dẫm vết chân mà lo tránh trước đi. 119) Sợ nguy thì yên, sợ mất thì còn.

120) Người mà làm việc có đạo lý thì tốt, làm việc không có đạo lý thì xấu. Nếu tốt thì trăm điều may sẽ tới, nếu sấu thì trăm điều rủi sẽ dồn dập vào, chẳng phải nhờ thần thánh nào mà việc cũng tự nhiên xẩy tới như thế.

121) Chuyên dùng kế lành thì không xẩy việc dữ, không lo xa thì sẽ rầu gần.

122) Cùng chí thì hợp nhau.

123) Cùng nhân từ thì chung lo.

124) Cùng trí thức thì mưu đồ chung.

125) Cùng làm ác thì kết bè đảng.

126) Cùng mến thì tìm nhau.

127) Cùng vẻ đẹp thì ghét nhau.

128) Cùng quí một vật thì hại nhau.

129) Cùng lợi thì kỵ (sợ) nhau.

130) Cùng lời nói thì hưởng ứng nhau.

131) Cùng chí thì cảm mến nhau.

132) Cùng loại thì nương nhau.

133) Cùng chính nghĩa thì gần gũi nhau.

134) Cùng nạn thì giúp nhau.

135) Cùng đạo thì chung xây dựng.

136) Cùng nghề thì dò nhau.

137) Cùng khéo thì tranh nhau.

138) Ấy là cái điều mà mình được theo số mệnh như thế, không thể đi ngược với lý lẽ ấy.

139) Bỏ bê không dạy mình mà đi dạy người là nghịch, sửa mình mà dạy người là thuận. Nghịch thì khó theo, thuận thì dể làm, khó theo thì loạn, dể làm thì yên trị. Như thế có thể trị mình, trị nhà, trị nước vậy.