Nước Mỹ và chặng đường giành độc lập/9

Tủ sách mở Wikibooks

Lương tri và độc lập

Tháng 1/1776, Thomas Paine, một lý thuyết gia chính trị và nhà văn cấp tiến từ nước Anh đến Mỹ năm 1774, đã ấn hành cuốn sách dày 50 trang mang tựa đề “Lương tri”. Trong vòng ba tháng, 100.000 bản của cuốn sách này đã bán hết. Paine đã tấn công tư tưởng quân chủ cha truyền con nối. Ông nêu rõ một con người trung thực sẽ có giá trị đối với xã hội nhiều hơn tất cả phường lưu manh vô lại núp bóng triều đình đã từng sống trên cõi đời này. Ông cũng đưa ra những giải pháp thay thế – hoặc là tiếp tục cam chịu cúi đầu trước tên vua tàn bạo và một chính phủ mục ruỗng, hoặc là tự do và hạnh phúc với tư cách là một nền cộng hòa độc lập, tự chủ. Được phổ biến ở khắp các thuộc địa, “Lương tri” đã tiếp thêm sức mạnh cho quyết tâm ly khai.

Tuy nhiên, nhiệm vụ kêu gọi từng thuộc địa thông qua tuyên ngôn chính thức vẫn còn đó. Ngày 7/6, Richard Henry Lee người bang Virginia đã trình bày một nghị quyết tại Đại hội Lục địa lần thứ hai, tuyên bố rằng những thuộc địa hợp nhất này được, và có quyền phải được trở thành những quốc gia tự do và độc lập… Ngay lập tức một ủy ban năm người do Thomas Jefferson người bang Virginia đứng đầu đã được phân công nhiệm vụ soạn thảo một tuyên ngôn để bỏ phiếu thông qua.

Phần lớn tác phẩm Tuyên ngôn Độc lập được thông qua ngày 4/7/1776 của Jefferson không chỉ tuyên bố sự ra đời của một quốc gia mới mà còn trình bày một triết lý về tự do của con người. Đây chính là động lực thúc đẩy sự phát triển trên toàn thế giới. Mặc dù bản Tuyên ngôn Độc lập đã tiếp thu triết lý khai sáng của phong trào Khai sáng ở Anh và Pháp song một văn kiện quan trọng cũng có một ảnh hưởng đặc biệt to lớn: Chuyên luận thứ hai về chính phủ của John Locke. John Locke đã tiếp thu những khái niệm về quyền vốn đã có từ lâu của người Anh và phổ biến chúng thành quyền tự nhiên của toàn nhân loại. Đoạn mở đầu của bản Tuyên ngôn Độc lập đã nhắc lại khế ước xã hội của Locke về cai trị:

Chúng tôi khẳng định một chân lý hiển nhiên rằng mọi người sinh ra đều bình đẳng, rằng tạo hóa đã ban cho họ những quyền tất yếu và bất khả xâm phạm, trong đó có quyền sống, quyền được tự do và mưu cầu hạnh phúc. Rằng để đảm bảo cho những quyền này, các chính phủ được lập ra trong nhân dân và có được những quyền lực chính đáng trên cơ sở sự nhất trí của nhân dân, rằng bất cứ khi nào một thể chế chính quyền nào đó phá vỡ những mục tiêu này, thì nhân dân có quyền thay đổi hoặc loại bỏ chính quyền đó và lập nên một chính quyền mới, đặt trên nền tảng những nguyên tắc cũng như tổ chức thực thi quyền hành theo một thể chế sao cho có hiệu quả tốt nhất đối với an ninh và hạnh phúc của họ.

Jefferson đã trực tiếp liên hệ những nguyên lý của Locke với tình hình ở các thuộc địa. Đấu tranh giành độc lập cho nước Mỹ là đấu tranh để xây dựng một chính phủ theo sự chấp thuận của nhân dân thay thế cho một chính phủ của một ông vua đã cùng với một số thế lực khác buộc chúng ta phải tuân theo quyền tài phán xa lạ với hiến pháp của chúng ta và không được luật pháp của chúng ta công nhận…. Chỉ có một chính phủ dựa trên sự tán thành của dân chúng mới có thể bảo vệ được mọi quyền tự nhiên – quyền được sống, quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc. Như vậy, tranh đấu vì nền độc lập của nước Mỹ là tranh đấu vì quyền tự nhiên của mỗi con người.