Đế quốc Đại Minh/Lịch sử/Suy tàn và sụp đổ

Tủ sách mở Wikibooks

Cuối thời Minh Thần Tông[sửa]

Minh Thần Tông trong bộ triều phục

Tình trạng ngân khố kiệt quệ do chiến tranh Nhâm Thìn gây ra là một trong nhiều vấn đề (liên quan tới tài chính và các lĩnh vực khác) mà nhà Minh phải đối mặt trong giai đoạn trị vì của Minh Thần Tông (1572–1620). Đầu triều đại, Minh Thần Tông được bao quanh bởi những cố vấn có năng lực và đã rất tận tâm giải quyết công việc nhà nước. Phụ chính đại thần Trương Cư Chính (1572–82) xây dựng một mạng lưới liên minh hiệu quả giữa các quan chức cấp cao. Tuy nhiên, không còn ai kế tục Trương Cư Chính duy trì sự ổn định của các liên minh này, các quan chức sớm tập hợp thành những bè phái chính trị đối lập nhau. Theo thời gian, Minh Thần Tông bắt đầu cảm thấy mệt mỏi với công việc triều chính và những màn đấu khẩu chính trị giữa các đại thần. Ông chọn nép mình phía sau những bức tường ở Tử Cấm Thành, khuất mắt bề tôi của mình.

Giới sĩ đại phu mất dần chỗ đứng trong hoạt động quản lý chính vụ khi các hoạn quan trở thành trung gian giữa họ với vị hoàng đế xa cách. Bất kỳ đại thần nào muốn thảo luận vấn đề quốc gia đều phải hối lộ đám hoạn quan lộng quyền, chỉ để yêu cầu hoặc thông điệp của họ được chuyển đến hoàng đế. Cùng lúc với chiến tranh Nhâm Thìn, loạn Bá Châu cũng đang bùng nổ.

Vai trò của hoạn quan[sửa]

Tách trà thời Minh Hy Tông, từ Bộ sưu tập Nantoyōsō ở Nhật Bản; Minh Hy Tông chịu ảnh hưởng nặng nề và bị kiểm soát bởi hoạn quan Ngụy Trung Hiền (1568–1627).

Minh Thái Tổ từng cấm hoạn quan được học chữ và tham gia chính trường. Dù những giới luật này có được thực hiện thành công tuyệt đối trong thời Minh Thái Tổ hay không, thì các hoạn quan kể từ thời Minh Thành Tổ vẫn quản lý nhiều công xưởng hoàng gia, chỉ huy quân đội và can thiệp công tác bổ nhiệm, thăng chức quan lại. Minh Thành Tổ giao cho 75 hoạn quan phụ trách đối ngoại, họ thường xuyên viếng thăm các quốc gia chư hầu như An Nam, Mông Cổ, Lưu Cầu và Tây Tạng, ít thường xuyên với những nơi xa hơn như Nhật Bản và Nepal. Tuy nhiên, tới cuối thể kỷ 15, các sứ thần hoạn quan chỉ còn thường ghé thăm Triều Tiên.

Giới hoạn quan đã phát triển bộ máy quan liêu của riêng họ, được tổ chức song song nhưng không bị bộ máy công vụ quản lý. Mặc dù có một số hoạn quan tiếm quyền trong suốt triều đại, chẳng hạn như Vương Chấn, Vương Trực, Lưu Cẩn, nhưng quyền lực chuyên chế quá mức của hoạn quan chỉ thực sự rõ ràng khi Minh Thần Tông gia tăng quyền hạn của bộ máy dân sự và trao cho họ quyền thu thuế ở các tỉnh thành trong những năm 1590.

Hoạn quan Ngụy Trung Hiền (1568–1627) khuynh đảo triều chính dưới thời Minh Hy Tông, ông tra tấn đến chết các đối thủ chính trị của mình, phần đa là người của phái Đông Lâm. Ngụy Trung Hiền dựng nhiều đền đài tôn vinh bản thân trên khắp đất nước, dùng tiền từ quỹ lăng tẩm hoàng gia để xây cất tư dinh. Bạn bè và người thân của ông được nắm giữ nhiều chức vụ quan trọng mà không cần bằng cấp. Ngụy Trung Hiền cũng cho xuất bản nhiều tác phẩm lịch sử chê bai, coi thường các chính trị gia đối lập. Khi thiên tai, ôn dịch, nội loạn và ngoại xâm chạm tới mức đỉnh điểm, cũng là lúc triều đình nhà Minh trở nên bất ổn. Ngụy Trung Hiền tự sát ngay sau khi bị Minh Tư Tông bãi nhiệm.  

Hoạn quan tổ chức cấu trúc xã hội riêng, cấp dưỡng và hỗ trợ cho những thị tộc sinh ra họ. Hình ảnh người cha nâng đỡ con trai mình được thay thế bằng người chú hoạn quan. Hắc Sơn Hội ở Bắc Kinh đã tài trợ cho một ngôi đền tiến hành các nghi lễ thờ cúng, tưởng nhớ tới Cương Thiết, một hoạn quan quyền lực thời nhà Nguyên. Ngôi đền trở thành một địa điểm có ảnh hưởng đối với tầng lớp hoạn quan có địa vị và vẫn tiếp tục giữ vai trò (dần suy giảm) này trong cả thời nhà Thanh.

Suy thoái kinh tế, thiên tai[sửa]

Bức Hán cung xuân hiểu của Cừu Anh (1494–1552). Giai đoạn Minh mạt đánh dấu sự xa hoa, suy đồi quá mức của hoàng gia, được thúc đẩy nhờ lượng bạc khổng lồ mới cập bến và các giao dịch tư nhân liên quan tới bạc.

Cuối thời Minh Thần Tông, xuyên suốt qua triều đại của hai vị hoàng đế tiếp theo, một cuộc khủng hoảng kinh tế đã bùng phát với trung tâm là sự thiếu hụt đột ngột nguồn cung bạc–phương tiện trao đổi chính của đế quốc. Năm 1516, người Bồ Đào Nha lần đầu tiên giao thương với Trung Quốc, đổi bạc Nhật Bản lấy tơ lụa Trung Quốc. Năm 1557, sau một số động thái thù địch ban đầu, họ được nhà Minh cho phép biến Ma Cao thành cơ sở thương mại lâu dài ở Trung Quốc. Vai trò cung cấp bạc của người Bồ Đào Nha dần bị người Tây Ban Nha thay thế, cả người Hà Lan cũng thách thức người Bồ Đào Nha trong việc kiểm soát hoạt động buôn bán. Vua Felipe IV của Tây Ban Nha bắt đầu trấn áp các đường dây buôn lậu bạc từ Tân Tây Ban Nha và Peru qua Thái Bình Dương, Philippines vào Trung Quốc, ủng hộ việc vận chuyển bạc khai thác từ châu Mỹ qua các cảng của Tây Ban Nha. Năm 1639, Mạc phủ Tokugawa đóng cửa hầu hết hoạt động ngoại thương với các cường quốc châu Âu, cắt đứt một nguồn bạc khác vào Trung Quốc. Những sự kiện trên diễn ra gần như cùng lúc khiến bạc nhanh chóng trở nên đắt đỏ và hầu hết các tỉnh thành không thể nộp thuế. Người dân bắt đầu tích trữ bạc quý vốn đang ngày càng khan hiếm, làm cho tỷ giá của tiền đồng so với bạc giảm mạnh. Những năm 1630, một quan tiền đồng tương đương với một lượng bạc, vào năm 1640, là một nửa lượng và đến năm 1643 thì chỉ còn là một phần ba lượng. Đây là thảm họa kinh tế đối với nông dân, vì họ phải nộp thuế bằng bạc trong khi giao thương địa phương và buôn bán cây trồng bằng tiền đồng. Các nhà sử học gần đây đã tranh luận về việc liệu tình trạng thiếu bạc có phải là nguyên nhân trực tiếp khiến nhà Minh diệt vong.  

Đầu thế kỷ 17, dưới tác động của Tiểu băng hà, thời tiết khô hanh và lạnh giá bất thường rút ngắn mùa trồng trọt khiến nạn đói lan rộng khắp miền bắc Trung Quốc. Đói kém, thuế tăng, lính tráng đào ngũ, hệ thống cứu trợ trì trệ, thảm họa thiên nhiên và một chính phủ không có khả năng quản lý thủy lợi, kiểm soát lũ lụt, là những nhân tố lấy đi mạng sống của người dân và cả trật tự xã hội vốn có. Vì thiếu nguồn lực, chính quyền trung ương làm được rất ít việc để giảm thiểu tác động của thiên tai. Mọi chuyện càng trở nên tồi tệ hơn khi một đại dịch lan rộng từ Chiết Giang đến Hà Nam, cướp đi vô vàn sinh mạng. Trận động đất Thiểm Tây năm 1556, dưới thời Minh Thế Tông, giết chết khoảng 83 vạn người, là trận động đất có thương vong khủng khiếp nhất mọi thời đại.

Sự trỗi dậy của người Mãn Châu  [sửa]

Sơn Hải quan dọc theo Vạn Lý Trường Thành, cánh cổng nơi người Mãn Châu nhiều lần bị đẩy lui trước khi Ngô Tam Quế mở cửa cho họ vào năm 1644.

Dù chỉ khởi đầu với một bộ lạc nhỏ, Nỗ Nhĩ Cáp Xích, một thủ lĩnh người Nữ Chân, đã nhanh chóng giành được quyền kiểm soát tất cả các bộ lạc ở Mãn Châu. Trong cuộc chiến tranh Nhâm Thìn diễn ra vào những năm 1590, Nỗ Nhĩ Cáp Xích từng đề nghị lãnh đạo các bộ lạc, hỗ trợ liên quân Minh–Triều. Dù khước từ lời đề nghị, nhà Minh vẫn phong tặng cho Nỗ Nhĩ Cáp Xích một tước vị danh dự vì tấm lòng thành của ông. Nhận thấy sự yếu kém của chính quyền nhà Minh, Nỗ Nhĩ Cáp Xích thống nhất các bộ lạc lân cận phía bắc và củng cố quyền lực tại các khu vực xung quanh quê hương, như nhà Kim đã từng làm trước đây. Năm 1610, Nỗ Nhĩ Cáp Xích cắt đứt quan hệ với triều đình nhà Minh. Năm 1618, ông yêu cầu nhà Minh phải triều cống, bồi thường cho “Thất đại hận”.

Năm 1636, con trai Nỗ Nhĩ Cáp Xích là Hoàng Thái Cực, đổi quốc hiệu “Hậu Kim” thành “Đại Thanh” tại Thẩm Dương, nơi bị quân Thanh chiếm vào năm 1621 và được chọn làm kinh đô của hoàng triều vào năm 1625. Hoàng Thái Cực tự xưng là hoàng đế, lấy niên hiệu Sùng Đức, đổi tên dân tộc của mình từ “Nữ Chân” thành “Mãn Châu”. Năm 1638, người Mãn Châu đánh bại và chinh phục thành công Triều Tiên, đồng minh lâu đời của nhà Minh, trong cuộc xâm lược Triều Tiên lần thứ hai. Ít lâu sau, Triều Tiên từ bỏ thần phục nhà Minh sau vài thế kỷ.

Nội loạn, ngoại xâm, diệt vong[sửa]

Đầu những năm 1630, một người lính nông dân tên là Lý Tự Thành, đã cùng đồng nghiệp của mình tổ chức binh biến ở Thiểm Tây khi triều đình nhà Minh không gửi tiếp tế thiết yếu tới nơi này. Năm 1634, Lý Tự Thành bị một viên tướng nhà Minh bắt sống và được trả tự do với điều kiện là ông phải quay trở lại phục vụ quân ngũ. Thỏa thuận trên nhanh chóng bị phá bỏ khi một tri huyện địa phương quyết định xử tử 36 đồng phạm của Lý Tự Thành. Người của Lý Tự Thành giết nhiều quan lại để trả thù và tiếp tục lãnh đạo một cuộc khởi nghĩa ở Dinh Dương, trung tâm Hà Nam, vào năm 1635. Đến những năm 1640, Trương Hiến Trung (1606–1647), một cựu binh và cũng đang là đối thủ của Lý Tự Thành, đã tạo dựng được một căn cứ khởi nghĩa vững chắc ở Thành Đô, Tứ Xuyên. Trong khi đó, Lý Tự Thành cũng có riêng căn cứ địa ở Hồ Bắc, ảnh hưởng rộng khắp Thiểm Tây và Hà Nam.

Năm 1640, đông đảo nông dân đói khát, không thể nộp thuế và không còn e sợ trước quân triều đình vốn thường xuyên bại trận, bắt đầu tự hình thành nên các nhóm phiến quân quy mô lớn. Trong bối cảnh bị kẹt giữa những nỗ lực không kết quả nhằm đánh bại quân Mãn Thanh ở phía bắc và dẹp yên các cuộc khởi nghĩa nông dân trong nước, quân đội nhà Minh về cơ bản đã tan rã. Phải chiến đấu không lương, quân Minh bị Lý Tự Thành–người lúc này đã tự xưng là Đại Thuận vương–đánh bại và rời bỏ kinh đô với rất ít sự phản kháng. Ngày 25 tháng 4 năm 1644, Bắc Kinh thất thủ trước một cánh quân do Lý Tự Thành chỉ huy khi các nội gián mở toang cổng thành. Giữa loạn lạc, hoàng đế cuối cùng của nhà Minh đã treo cổ tự sát trong vườn ngự uyển, bên ngoài Tử Cấm Thành.

Tập tin:Ming Chongzhen.jpg
Chân dung Minh Tư Tông

Không bỏ lỡ thời cơ, Bát Kỳ tràn qua Vạn Lý Trường Thành khi tướng biên phòng nhà Minh là Ngô Tam Quế (1612–1678) chủ động mở cửa Sơn Hải Quan. Ngô Tam Quế làm điều này khi biết tin kinh đô đã thất thủ còn quân Đại Thuận thì đang tiến về phía ông. Sau khi cân nhắc các lựa chọn liên minh, Ngô Tam Quế quyết định đứng về phía người Mãn Châu. Tiêu diệt xong cánh quân được gửi tới Sơn Hải Quan của Lý Tự Thành, Đa Nhĩ Cổn và Ngô Tam Quế dẫn Bát Kỳ áp sát Bắc Kinh. Ngày 4 tháng 6 năm 1644, nghĩa quân Đại Thuận tháo chạy khỏi kinh đô. Ngày 6 tháng 6 năm 1644, Ngô Tam Quế và người Mãn Châu tiến vào Bắc Kinh, tuyên bố Hoàng đế Thuận Trị trẻ tuổi là người cai trị Trung Quốc. Sau khi buộc Lý Tự Thành chạy khỏi Tây An, quân Thanh tiếp tục truy sát ông men theo sông Hán tới Vũ Xương. Mùa hè năm 1645, Lý Tự Thành qua đời ở vùng biên giới phía bắc Giang Tây, đặt dấu chấm hết cho nhà Đại Thuận. Một báo cáo nói rằng Lý Tự Thành đã tự sát, cũng có người cho là ông bị nông dân đánh chết vì ăn trộm thức ăn.

Bất chấp việc hoàng đế băng hà và Bắc Kinh đã rơi vào tay người Mãn Châu, nhà Minh vẫn chưa bị tiêu diệt hoàn toàn. Nam Kinh, Phúc Kiến, Quảng Đông, Sơn Tây, Vân Nam đều là những thành trì kháng chiến của quân Minh. Tuy nhiên, quân Minh sớm bị chia rẽ khi có nhiều kẻ tự nhận mình là hoàng đế. Sau năm 1644, nhiều quốc gia tàn dư của nhà Minh vẫn tồn tại rải rác ở miền nam Trung Quốc, được các sử gia thế kỷ 19 gọi chung là Nam Minh. Từng thành lũy kháng chiến lần lượt bị quân Thanh tiêu diệt cho tới năm 1662 khi hoàng đế Nam Minh cuối cùng là Minh Chiêu Tông Chu Do Lang qua đời. Những vương gia còn phản kháng là Chu Thuật Quế, con trai ông Chu Dĩ Hải và Chu Hoằng Hoàn, người vẫn ở lại với các trung thần của Trịnh Thành Công tại Vương quốc Đông Ninh (Đài Loan) cho đến năm 1683. Chu Thuật Quế tuyên bố rằng ông hành động nhân danh Minh Chiêu Tông đã khuất. Nhà Thanh rốt cuộc vẫn đưa 17 vương gia nhà Minh còn sống ở Đài Loan trở về Trung Quốc đại lục để họ được sống nốt phần đời còn lại tại đây.

Năm 1725, một hậu duệ hoàng tộc nhà Minh là Chu Chi Liễn, được Thanh Thế Tông Ung Chính sắc phong hầu tước. Chu Chi Liễn nhận bổng lộc từ triều đình nhà Thanh và có nhiệm vụ thực hiện các nghi lễ tại Thập Tam lăng. Năm 1750, Thanh Cao Tông Càn Long phong cho Chu Chi Liễn làm Diên Ân hầu, một tước vị truyền qua 12 thế hệ con cháu hoàng tộc nhà Minh cho đến tận năm 1912, cuối thời nhà Thanh. Chu Dục Huân là Diên Ân hầu cuối cùng. Năm 1912, sau khi nhà Thanh sụp đổ trong cuộc cách mạng Tân Hợi, từng có chủ trương nên chọn một người Hán lên làm hoàng đế, người này hoặc là một Diện Thánh công, hậu duệ Khổng Tử, hoặc là một Diên Ân hầu, hậu duệ hoàng tộc nhà Minh.