Bước tới nội dung

Sách luận ngữ/Bát Dật

Tủ sách mở Wikibooks

26 bài

3.1

孔子谓季氏: 八佾舞於庭,是可忍也,孰不可忍也!

Khổng tử vị Quí Thị: Bát Dật vũ ư đình, thị khả nhẫn, thục bất khả nhẫn dã!

Khổng tử nói về Quí Thị: Múa điệu Bát Dật ở sân đình, sự ấy chấp nhận được thì việc gì chẳng dám làm !

(Chú thích: Theo qui định lễ nhạc nhà Chu, hoàng đế được dùng 8 đội bát dật, mỗi đội 8 người (8 x 8 = 64 vũ công), vua chư hầu được dùng 6 đội, quan đại phu dùng 4 đội, quan sĩ dùng 2 đội. Họ Quí là đại phu mà dám dùng 8 đội, vậy là khi quân phạm thượng.

Khổng tử sống vào thời Xuân thu, thời này có hai bậc vua. Thiên tử (hoàng đế nhà Chu) là vua lớn nhất bao trùm Trung Hoa, mỗi nước chư hầu có một vua (hầu), dưới vua chư hầu là quan đại phu, dưới quan đại phu là quan sĩ, dưới nữa là gia thần. Kinh Lễ của nhà Chu qui định mọi thứ quyền lợi, nghi thức kể cả trang phục, lối giải trí văn nghệ…gắn liền với cấp bậc. Khổng tử cho rằng nếu vi phạm một lễ, dù nhỏ (như nhảy múa) thì sau có thể vi phạm lớn hơn, thậm chí làm phản. Ngài phê phán Quí Thị lúc này mới giữ chức đại phu nước Lỗ mà dám cho nhảy múa theo nghi thức thiên tử nhà Chu !… Thực tế giai đoạn này (Đông Chu từ 778 đến 256 trCN) đã nảy sinh một bậc vua thứ 2 chen vào giữa đế và hầu, gọi là vương (hoặc bá). Bá vương chỉ muốn chinh phục các chư hầu mà ngoi lên ngôi đế… Do vương chưa được danh chính ngôn thuận nên chưa có lễ qui định. Khổng tử chỉ thừa nhận có hai bậc là đế và hầu. Nhiều thời phong kiến về sau, các vua chúa chính thức đặt ra tước vương để làm yên lòng công thần và hoàng tộc nhưng không phong đất.)

3.2

三家者以《雍》彻。子曰:‘相维辟公,天子穆穆’,奚取於三家之堂?

Tam gia giả dĩ “Ung” triệt. Tử viết: “Tướng duy tịch công, thiên tử mục mục, hề thủ ư tam gia chi đường ?”

Ba đại gia tấu bài nhạc “Ung” nghe sau khi cúng lễ. Khổng tử nói: “Trợ tế là vua chư hầu hoặc thiên tử chủ tế uy nghiêm sâu xa, bây giờ ba nhà làm thế là có ý gì ?”

(Chú thích: Ba vị đại phu nước Lỗ là Trọng Tôn, Thúc Tôn, Quí Tôn lén dùng lễ chế thiên tử, tế tự xong còn ca tụng nhạc “Ung”. Khổng tử cảnh báo ba người ấy dám chơi bản nhạc “Ung” tức là phạm thượng, có mầm mống phản nghịch)

3.3

子曰:人而不仁,如礼何?人而不仁,如乐何 ?

Tử viết: “Nhân nhi bất nhân, như lễ hà ? Nhân nhi bất nhân, như nhạc hà ?”

Khổng tử nói: Một người bất nhân, coi chữ lễ có ra gì ? Một người không có lòng nhân sao có thể tấu nhạc?

(Lời bàn: nhân là cốt lõi chi phối tất cả, lễ và nhạc là hình thức bên ngoài, thiếu “nhân” thì “lễ và nhạc” chỉ là phô trương giả dối, sẽ không có tác dụng gì tốt. Như vậy lễ-nhạc- nhân là một thể hữu cơ thống nhất.

Quan điểm mỹ học của Khổng tử bền vững muôn đời và rất hiện đại. Ngày nay chúng ta nghĩ đến phần lớn âm nhạc trẻ dễ dãi đầu thế kỷ 21, game onlines. v.v…thật nhố nhăng, chỉ là giải trí giết thời gian. Lại nghĩ đến mối quan hệ biện chứng giữa nội dung và hình thức, nếu hình thức nhố nhăng (nhạc, game) có thể gây tác động xấu, dần dần tác hại vào bản chất của “nhân”)

3.4

林放问礼之本。子曰:大哉问!礼,与其奢也,宁俭;丧,与其易也,宁戚

Lâm Phóng vấn lễ chi bản. Tử viết: “Đại tai vấn ! Lễ, dự kỳ xa, ninh kiệm; Tang, dự kỳ dị dã, ninh thích.”

Lâm Phóng (người nước Lỗ) hỏi về bản chất của lễ. Khổng tử nói: Vấn đề này rất quan trọng ! Lễ nói chung mà đi kèm với xa hoa, không bằng tiết kiệm. Đám tang mà cầu kỳ phô trương, chẳng bằng đau buồn trong lòng.

3.5

子曰:夷狄之有君,不如诸夏之亡也

Tử viết: Di Địch chi hữu quân, bất như chư Hạ chi vong dã.

Khổng tử nói: “Các dân tộc mọi rợ còn có vua, chẳng như các dân tộc Hoa Hạ cứ như thể không có vua vậy”.

(Chú thích: thời Chu loạn lạc, vua chư hầu lấn át quyền thiên tử, đại phu lấn lướt vua chư hầu, chẳng có kỷ cương nữa… Khổng tử buồn bã mà than thở. Khổng tử sao nỡ gọi tất cả các dân tộc láng giềng là “mọi rợ”. Thôi, chúng ta hãy tha thứ cho ông (chữ thứ của Khổng tử) bị hạn chế bởi thời đại. Hồi ấy ông chưa từng biết nước Văn Lang của vua Hùng đâu nhỉ).

3.6

季氏旅於泰山,子谓冉有曰:“女弗能救与?”对曰:“不能”.子曰:“呜呼!曾谓泰山不如林放乎?”

Quí Thị lữ ư Thái Sơn, Tử vị Nhiễm Hữu viết: “Nhữ phất năng cứu dự? Đối viết “Bất năng”. Tử viết: “Ô hô ! Tằng vị Thái Sơn bất như Lâm Phóng hồ ?”.

Quí Thị đi lễ núi Thái Sơn, Khổng tử nói với Nhiễm Hữu rằng: “Ngươi không can thiệp việc đó ư?”. Nhiễm Hữu đáp: “Không thể được!”. Không tử nói: “Than ôi, đã như thần núi Thái Sơn lại không bằng Lâm Phóng ư?”.

(Chú thích: Núi Thái Sơn ở nước Lỗ (tỉnh Sơn Đông ngày nay) rất linh thiêng, thiên tử ủy nhiệm vua Lỗ đi cúng tế, vậy mà Quí Thị đại phu nước Lỗ dám vượt lễ đi cúng. Khổng tử trách thần núi Thái Sơn vẫn nhận lễ của Quí Thị tức là không bằng Lâm Phóng một người dân Lỗ hiểu biết lễ (xem lại câu 3.4 ở trên).

3.7

子曰:君子无所争,必也射乎!揖让而升,下而饮,其争也君子.

Tử viết: “Quân tử vô sở tranh, tất dã xạ hồ ! Ấp nhượng nhi thăng, hạ nhi ẩm, kỳ tranh dã quân tử”.

Khổng tử nói: “Quân tử không cần tranh đua, có thể tranh đua khi bắn cung thôi. Vái chào khi bước lên bắn, xong ngồi uống rượu nâng chén mừng nhau – đó mới chính là lối tranh đua của quân tử”.

(Lời bàn: Tranh đua cũng như thi bắn cung, cần trổ tài hết sức, nhưng vẫn phải giữ lễ với nhau. Bắn cung là môn thi không đối kháng, còn dễ thực hiện. Như môn thi đối kháng thì quả là khó giữ chữ Lễ, vậy cần phải có luật chơi và trọng tài rắn)

3.8

子夏问曰:‘巧笑倩兮,美目盼兮,素以为绚兮’。何谓也?

子曰:“绘事后素”

子夏 曰:“礼后乎?”.

子曰:“起予者商也,始可与言诗已矣”

Tử Hạ vấn viết: “Xảo tiếu thiến hề, mỹ mục phán hề. Tố dĩ vi huyến hề. Hà vi dã ?”.

Tử viết: “Hội sự hậu tố”.

Tử Hạ viết: “Lễ hậu hồ?”.

Tử viết “Khởi dư giả thương dã, thỉ khả dữ ngôn thi dĩ hĩ ”.

Tử Hạ hỏi: “Cười khéo đẹp làm sao, đôi mắt thật có duyên. Nền trắng vẽ bức tranh rực rỡ”. Kinh Thi nói thế nghĩa là gì ?

Khổng tử đáp: Phải có nền trắng đẹp trước, sau mới vẽ tranh.

Tử Hạ tiếp: Vậy lễ nhạc cũng đến sau “nhân”ư ?

Khổng tử nói: Như thế là trò hiểu biết đấy, ngươi có thể cùng ta thảo luận Kinh Thi được rồi.

(Lời bàn: Nhân đức và lễ là nền tảng của nghệ thuật, kẻ bất nhân không thể làm nghệ sĩ tử tế được)

3.9

子曰:夏礼吾能言之,杞不足徵也;殷礼吾能言之,宋不足徵也。文献不足故也。足,则吾能徵之矣.

Tử viết: Hạ lễ ngô năng ngôn chi, Kỷ bất túc trưng dã; Ân lễ ngô năng ngôn chi, Tống bất túc trưng dã, Văn hiến bất túc cố dã. Túc, tắc ngô năng trưng chi hĩ.

Khổng tử nói: Lễ nghĩa đời Hạ ta có thể nói ra được, nhưng nước Kỉ (cũng dòng dõi nhà Hạ) do thiếu sách vở nên ta không khảo chứng thực tình được. Lễ triều Ân ta cũng có thể nói ra được, nhưng nước Tống do thiếu tài liệu nên ta không khảo chứng tỏ tường được. Tất cả đều do thư tịch sách vở không đủ. Nếu có đủ, ắt ta đã có thể khảo cứu tường tận hết rồi.

(Lời bàn: Lễ nghĩa cũng cần ghi thành văn bản qui định. “Nói có sách, mách có chứng”)

3.10

子曰:禘自既灌而往者, 吾不欲观之矣.

Tử viết: Đế tự ký quán nhi vãng giả, ngô bất dục quan chi hĩ.

Khổng tử nói: Lễ tế đế ư, ta xem xong đợt chúc rượu thứ nhất thì đã không muốn xem rồi.

(Chú thích: Khổng tử xem lễ tế Đế của vua chư hầu nước Lỗ, thấy họ lạm quyền thiên tử nên phê phán)

3.11

或问禘之说,子曰:不知也。知其说者之於天下也,其如示诸斯乎! 指其掌。

Hoặc vấn Đế chi thuyết, Tử viết: Bất tri dã. Tri kỳ thuyết giả chi ư thiên hạ dã, kỳ như kì chư tư hồ ! Chỉ kỳ chưởng.

Có người hỏi về chuyện tế Đế (hoàng đế cúng tế tổ tiên và trời), Khổng tử đáp: “Ta không biết. Người biết việc ấy thì cai trị thiên hạ cũng dễ như đưa vật vào chỗ này”, Khổng tử chỉ vào bàn tay.

3.12

祭如在,祭神如神在。子曰:吾不与祭,如不祭 .

Tế như tại, tế thần như thần tại. Tử viết: Ngô bất dự tế, như bất tế.

Tế lễ cha mẹ phải coi như người đó ở trước mặt mình, tế lễ chư thần cũng coi như thần linh ở trước mặt mình. Khổng tử nói: Nếu ta không tham dự lễ tế (có người thay mặt ta tế lễ đi nữa) thì cũng như không tế lễ mà thôi.

3.13

王孙贾问曰:“与其媚於奥,宁媚於灶”, 何谓也?.

子曰:“不然。获罪於天,无所祷也” .

Vương Tôn Giả vấn viết: “Dự kỳ mị ư Áo, ninh mị ư Táo, hà vị dã?”.

Tử viết: “Bất nhiên. Hoạch tội ư thiên, vô sở đảo dã.”

Vương Tôn Giả hỏi: “Nịnh thần Áo, chẳng bằng nịnh thần Táo” nghĩa là sao ?


Khổng tử đáp: Không đúng. Định tội do Trời, còn nơi nào để cầu xin!

(Chú thích: Thần Áo thờ ở nhà trên, thần Táo thờ ở dưới bếp. Thần Táo lo việc ăn no mặc ấm nên người dân nghèo coi trọng hơn thần Áo… Khổng tử bảo không nên phân biệt đối xử các thần, Trời cao sẽ phán xét tất cả).


3.14

子曰:周监於二代,郁郁乎文哉,吾从周.

Tử viết: Chu giám ư nhị đại, úc úc hồ văn tai, ngô tòngChu.

Khổng tử nói: Lễ nhà Chu theo hai triều đại (Hạ, Ân), phong phú rực rỡ thay, ta theo nhà Chu.

3.15

子入太庙,每事问。或曰:“孰谓鄹人之子知礼乎?入太庙,每事问”. 子闻之,曰:“是礼也”.

Tử nhập thái miếu, mỗi sự vấn. Hoặc viết: “Thục vị Trâu nhân chi Tử tri lễ hồ? Nhập thái miếu, mỗi sự vấn”. Tử văn chi, viết: “Thị lễ dã”.

Khổng tử đi vào thái miếu (nước Lỗ), gặp mỗi việc đều hỏi kỹ. Có người nói: “Ai bảo con trai ấp Trâu (chỉ Khổng tử) biết lễ ? Anh ta đến thái miếu mà cái gì cũng không biết, phải hỏi”. Khổng tử nói: “Thế là biết lễ vậy”.


3.16

子曰:射不主皮,为力不同科,古之道也 .

Tử viết: “Xạ bất chủ bì, vị lực bất đồng khoa. Cổ chi đạo dã”.

Khổng tử nói: Thi bắn cung không nhất thiết phải xuyên qua tấm da (làm bia), vì sức lực không giống nhau. Đó là qui tắc bắn cung thời cổ.

(Lời bàn: Bắn cung miễn là toàn tâm toàn ý bắn vào đích, xuyên qua hay không là tùy theo sức người).

3.17

子贡欲去告朔之饩羊。子曰:赐也!尔爱其羊,我爱其礼.

Tử Cống dục khứ cáo sóc chi hí dương. Tử viết: “Tứ dã ! Nhĩ ái kỳ dương, ngã ái kỳ lễ”.

Tử Cống làm lễ sóc muốn bỏ tục lệ cúng dê. Khổng tử nói “anh Tứ này ! Ngươi yêu dê của ngươi, ta tiếc lễ của ta”.

(Chú thích: lễ Sóc là ngày mồng một đầu tháng, theo Lỗ lễ qui định cúng một con dê. Vua Lỗ bỏ không cúng dê nhưng vẫn bắt dân nộp dê. Tử Cống bèn đòi bỏ luôn tục cúng dê. Khổng tử bất đồng, kiên trì giữ lễ, nên nói rằng cúng con dê là nhắc ta giữ lễ).

3.18

子曰:事君尽礼,人以为谄也.

Tử viết: Sự quân tận lễ, nhân dĩ vi siểm dã.

Khổng tử nói: Phụng sự vua cho đúng lễ, vậy mà có người bảo ta siểm nịnh.

3.19

定公问:“君使臣,臣事君,如之何?”孔子对曰:君使臣以礼,臣事君以忠.

Định Công vấn: “Quân sử thần, thần sự quân, như chi hà? Khổng tử đối viết: Quân sử thần dĩ lễ, thần sự quân dĩ trung.

Vua Lỗ Định Công hỏi: Vua sai khiển bề tôi, bề tôi phụng sự vua, phải như thế nào là tốt ? Khổng tử thưa: Vua sử dụng bề tôi theo lễ, bề tôi thờ vua phải trung thành.

3.20

子曰:《关睢》,乐而不淫,哀而不伤 .

Tử viết: “Quan thư”, lạc nhi bất dâm, ai nhi bất thương.

Khổng tử nói: Bài “Quan thư” vui mà không quá đà, buồn mà không bi thương.

(Chú thích: Bài Quan thư mở đầu tập Kinh Thi, có chương “Yểu điệu thục nữ. Quân tử hảo cầu. Cầu chi bất đắc, Triển chuyển phản tắc”: dịch nghĩa “Cô gái xinh tươi kia, Có chàng tài giỏi muốn gặp cô, không gặp được, năm canh trằn trọc trở mình”. Bài thơ vui vẻ mức độ vừa phải. Quân tử mong nhớ buồn bâng khuâng, chưa đến nỗi sầu muộn quá mức. Khổng tử khen là vui và buồn hài hòa, không quá độ).

3.21

哀公问社於宰我,宰我对曰:“夏后氏以松, 殷人以柏,周人以栗,曰:使民战栗”.子闻之,曰:“成事不说,遂事不谏,既往不咎”

Ai Công vấn xã ư Tể Ngã, Tể Ngã đối viết: Hạ hậu thị dĩ tùng, Ân nhân dĩ bách,Chunhân dĩ lật, viết: Sử dân chiến lật”. Tử văn chi, viết: “Thành sự bất thuyết, toại sự bất gián, ký vãng bất cữu”.

Lỗ Ai Công hỏi Tể Ngã về việc lập đàn xã, Tể Ngã trả lời: Đời Hạ dùng cây tùng, đời Ân dùng cây bách, đời Chu dùng cây lật là có ý khiến cho dân nhìn thấy cây lật mà sợ hãi”. Khổng tử nghe biết, trách Tể Ngã rằng “Việc đã thành, không nên nói lại. Việc nhất định xảy ra, không nên can ngăn. Việc đã qua, không nên trách”.

(Chú thích: Xã là nơi thờ thần đất, triều đại nào thích cây gì trồng cây đó hoặc tùy theo chất đất. Cái tên cây không có ý nghĩa gì. Tể Ngã thuyết minh về 3 loại cây là có ý xui vua dựng đàn xã sao cho dân sợ. Khổng tử không hài lòng, có ý trách Tể Ngã.

Xã (社) là thần Đất và tắc (稷) là thần Lúa. Nhà vua mỗi năm có nhiệm vụ thay mặt dân chúng tế lễ ở bàn thờ xã tắc. Nếu là một “giang sơn” thì ắt phải có “xã tắc” vậy).

3.22

子曰:“管仲之器小哉!”. 或曰:“管仲俭乎?”, 曰:“管氏有三归,官事不摄,焉得俭?”. “然则管仲知礼乎?”,曰:“邦君树塞门,管氏亦树塞门;邦君为两君之好有反坫,管氏亦有反坫。管氏而知礼,孰不知礼?”

Tử viết: Quản Trọng chi khí tiểu tai ! Hoặc viết: Quản Trọng kiệm hồ ?

Viết: Quản thị hữu tam quy, quan sự bất nhiếp, yên đắc kiệm ?

Nhiên tắc Quản Trọng tri lễ hồ ?.

Viết: Bang quân thụ tắc môn, Quản thị diệc thụ tắc môn; Bang quân vi lưỡng quân chi hảo hữu phản điếm, Quản thị diệc hữu phản điếm. Quản thị nhi tri lễ, thục bất tri lễ ?

Khổng tử nói: Quản Trọng bụng dạ hẹp hòi.

Có người hỏi: Hay là Quản Trọng tiết kiệm ?

Khổng tử nói: Quản Trọng qui ra ba lỗi, thu nhiều thuế má của dân thị thành, trong nhà nuôi nhiều đầy tớ, mỗi người chỉ làm một việc không kiêm nhiệm, thế sao gọi là tiết kiệm ? Người kia hỏi tiếp: Quản Trọng có biết lễ không ? Khổng tử đáp: Vua chư hầu dựng bình phong trước nhà, Quản Trọng cũng dựng bình phong trước nhà. Vua chư hầu mở tiệc tiếp vua khác được dùng giá úp chén, Quản Trọng đãi khách cũng dùng giá úp chén. Ôi Quản Trọng mà biết lễ, thì còn ai không biết lễ !

3.23

子语鲁大师乐,曰: 乐其可知也:始作,翕如也;从之,纯如也,皦如也,绎如也,以成

Tử ngữ Lỗ đại sư nhạc, viết: Nhạc kỳ khả tri dã: thỉ tác, hợp như dã; Tòng chi, đồn như dã, kiểu như dã, dĩ thành”.

Khổng tử nói với quan nhạc nước Lỗ: Ta cũng có biết về nhạc: khởi đầu phải tương hợp, (nhạc khớp lời ca), tiếp tục khai triển quấn quít hài hòa, rõ ràng trong sáng, liên tục, như thế là thành công.

3.24

仪封人请见,曰:“君子之至於斯也,吾未尝不得见也”. 从者见之。出曰:“二三子何患於丧乎?天下之无道也久矣,天将以夫子为木铎” .

Nghi phong nhân thỉnh kiến, viết: “Quân tử chi chí ư tư dã, ngô vị thưởng bất đắc kiến dã”. Tòng giả kiến chi. Xuất viết: “Nhị tam tử hà hoạn ư tang hồ ? Thiên hạ chi vô đạo dã cửu hĩ, thiên tương dĩ phu tử vi mộc đạc”.

Quan trấn thủ ấp Nghi xin gặp (Khổng tử), nói: “Quân tử các nơi đến đây, chưa có ai tôi chưa được tiếp kiến”. Học trò dẫn vào gặp Khổng tử. Khi trở ra, vị quan đó nói với học trò của thầy Khổng: “Các vị đừng lo buồn việc Khổng tử mất chức. Thiên hạ vô đạo đã lâu, trời sai Khổng tử làm cái mõ cây (gõ mõ cảnh báo người đời).

(Chú thích: Khổng tử từ bỏ chức tướng quốc nước Lỗ, đi chu du sang nước Vệ, ở đây gặp quan ấp tên Nghi. Ông Nghi sùng bái, đánh giá cao vai trò thầy Khổng còn hơn mọi chức quan)

3.25

子谓韶:“尽美矣,又尽善也”; 谓武:“尽美矣,未尽善也”

Tử vị Thiều: “Tận mỹ hĩ, hựu tận thiện dã;” vị Vũ: “Tận mỹ hĩ, vị tận thiện dã”.

Khổng tử nói về bản nhạc Thiều: “Đẹp tuyệt vời, nội dung lại hay, tốt”, và nhận xét về bản nhạc Vũ: “Rất hay, nhưng nội dung kém hơn một chút”.

(Chú thích: Thiều là khúc nhạc thời vua Thuấn, Vũ là khúc nhạc thời Chu Vũ Vương)

3.26

子曰:居上不宽,为礼不敬,临丧不哀,吾何以观之哉 ?

Tử viết: Cư thượng bất khoan, vi lễ bất kính, lâm tang bất ai, ngô hà dĩ quan chi tai?”.

Khổng tử nói: Cấp trên thiếu khoan dung kẻ dưới, hành lễ thiếu kính cẩn, gặp việc tang không đau buồn, làm sao ta có thể chịu họ được ?