Nước Mỹ với chủ nghĩa bảo thủ mới và trật tự thế giới mới/3

Tủ sách mở Wikibooks

Nền kinh tế những năm 1980

Chương trình đối nội của Tổng thống Reagan bắt nguồn từ quan điểm cho rằng đất nước sẽ thịnh vượng hơn nếu sức mạnh của khu vực kinh tế tư nhân được cởi trói. Lý thuyết kinh tế học chỉ đạo quan điểm này là lý thuyết trọng cung. Lý thuyết này cho rằng việc cung cấp nhiều loại hàng hóa và dịch vụ sẽ khiến đầu tư kinh doanh tăng lên và do đó, là con đường ngắn nhất dẫn đến tăng trưởng kinh tế. Để thực hiện chủ trương này, chính quyền Reagan cho rằng việc cắt giảm thuế sẽ làm tăng đầu tư xây dựng cơ bản và lợi nhuận của các doanh nghiệp, do đó, một mức thuế thấp hơn đánh vào những khoản thu nhập doanh nghiệp lớn này sẽ giúp cho thu nhập của chính phủ cũng tăng lên.

Mặc dù số đảng viên Cộng hòa ở Thượng viện là rất ít, còn Hạ viện thì do Đảng Dân chủ kiểm soát, song Tổng thống Reagan đã thành công trong năm cầm quyền đầu tiên của mình do những chương trình kinh tế mà ông đã đề ra, bao gồm việc cắt giảm thuế 25% theo từng giai đoạn trong hơn ba năm cho các cá nhân. Chính quyền cũng đã gia tăng chi phí quốc phòng nhằm hiện đại hóa quân đội Mỹ và nhằm đối phó với mối đe dọa mà nước Mỹ cảm thấy đang ngày càng tăng từ phía Liên Xô.

Dưới thời Paul Volcker, việc Cục Dự trữ Liên bang tăng lãi suất một cách chóng mặt đã làm trầm trọng hơn nạn lạm phát vốn đã bắt đầu từ cuối những năm 1970. Suy thoái đã chạm đáy vào năm 1982, với mức lãi suất chính lên tới gần 20% và kinh tế thì suy giảm nghiêm trọng. Trong năm đó, tổng sản phẩm quốc nội (GNP) thực tế đã giảm 2%; tỷ lệ thất nghiệp tăng lên gần đến mức 10% và gần 1/3 các nhà máy công nghiệp Mỹ rơi vào tình trạng trì trệ. Suốt miền Trung Tây, các công ty lớn như General Electric và International Harvester đều phải sa thải công nhân. Giá dầu mỏ lên cao khủng khiếp cũng góp phần khiến kinh tế suy thoái. Các đối thủ cạnh tranh của Mỹ là Đức và Nhật Bản đã chiếm được thị phần lớn hơn trong thương mại quốc tế, và người Mỹ đã tiêu dùng nhiều hơn những hàng hóa được sản xuất từ nước ngoài.

Nông dân cũng phải trải qua một giai đoạn khó khăn. Vào những năm 1970, nông dân Mỹ đã từng trợ giúp cho ấn Độ, Trung Quốc, Liên Xô và các nước khác đang bị mùa màng thất bát và phải vay nặng lãi để mua đất đai và phát triển sản xuất. Nhưng sự tăng giá của dầu mỏ đã đẩy chi phí lên cao và sự suy sụp bất ngờ của kinh tế thế giới năm 1980 đã làm giảm nhu cầu về các sản phẩm nông nghiệp. Sản lượng trong nông nghiệp giảm mạnh vì sản xuất chỉ tập trung vào tay một số nhỏ chủ trại có quy mô lớn. Tầng lớp nông dân nhỏ đã phải đối mặt với những khó khăn lớn để tồn tại.

Ngân sách quân sự gia tăng – cộng với việc cắt giảm thuế và chi tiêu của chính phủ cho y tế tăng lên – đã khiến cho chi tiêu của chính phủ vượt quá xa những khoản thu hàng năm của chính phủ. Một số nhà phân tích cho rằng các khoản thâm hụt này là do chiến lược quản lý có chủ ý nhằm ngăn chặn những khoản chi phí quốc nội ngày càng gia tăng của phe Dân chủ. Tuy nhiên cả phái Dân chủ lẫn phái Cộng hòa trong Quốc hội đều từ chối cắt giảm các khoản chi phí này. Từ 74 tỷ đô-la năm 1980, mức thâm hụt đã tăng lên 221 tỷ đô-la năm 1986 trước khi quay trở lại mức 150 tỷ đô-la năm 1987.

Nhưng cuộc suy thoái kinh tế sâu sắc vào đầu những năm 1980 đã kiềm chế thành công nạn lạm phát phi mã bắt đầu dưới thời Carter. Hơn nữa, giá dầu mỏ lại bắt đầu giảm mạnh khiến Reagan càng vững tin hơn khi quyết định xóa bỏ kiểm soát giá cả và trợ cấp khí đốt. Vào mùa thu năm 1984, nền kinh tế đã hồi phục khiến Reagan yên tâm triển khai chiến dịch vận động tái tranh cử của mình với khẩu hiệu Bình minh lại đến trên đất Mỹ. Ông đã đánh bại đối thủ Đảng Dân chủ là cựu Thượng nghị sỹ và Phó Tổng thống Walter Mondale với số phiếu áp đảo.

Hoa Kỳ đã bước vào một trong những giai đoạn tăng trưởng kinh tế bền vững và lâu dài nhất kể từ Chiến tranh Thế giới Thứ hai. Các khoản chi tiêu của người tiêu dùng đã tăng lên do nhà nước cắt giảm thuế. Thị trường chứng khoán tăng trưởng vì nó phản ánh một không khí tiêu dùng lạc quan. Trong suốt năm năm sau khi kinh tế được phục hồi, tổng sản phẩm quốc dân đã tăng 4,2% một năm. Tỷ lệ lạm phát hàng năm duy trì ở mức từ 3-5% trong những năm từ 1983 đến 1987, ngoại trừ năm 1986, tỷ lệ này đã giảm tới dưới 2% – đạt mức thấp nhất trong suốt những thập niên vừa qua. Tổng sản phẩm quốc nội tăng trưởng bền vững trong suốt những năm 1980. Từ năm 1982 đến năm 1987, nền kinh tế Mỹ đã tạo ra hơn 13 triệu việc làm mới.

Kiên định trong cam kết của mình về việc cắt giảm thuế, trong nhiệm kỳ thứ hai của mình, Reagan đã ký ban hành một biện pháp cải cách thuế có quy mô rộng rãi nhất trên toàn liên bang kể từ 75 năm nay. Với sự ủng hộ rộng rãi của cả Đảng Dân chủ và Đảng Cộng hòa, chính sách thuế mới này đã cắt giảm thuế thu nhập, đơn giản hóa các mức thuế và khắc phục được những lỗ hổng trong quản lý thuế.

Tuy nhiên, tỷ lệ tăng trưởng đáng kể này là do các khoản thâm hụt chi tiêu. Hơn nữa, các khoản nợ quốc gia đã tăng lên gấp ba và còn xa mới được ổn định nhờ tăng trưởng kinh tế mạnh. Sự tăng trưởng này phần lớn đến từ các ngành dịch vụ kỹ năng cao và các ngành kỹ thuật. Nhiều gia đình nghèo và tầng lớp trung lưu không phát đạt được nhiều như vậy. Đồng thời, mặc dù lớn tiếng kêu gọi tự do thương mại, nhưng chính quyền Reagan đã gây áp lực với Nhật Bản để buộc quốc gia này chấp nhận một hạn ngạch tự nguyện đối với việc xuất khẩu mặt hàng ôtô sang thị trường Mỹ.

Nền kinh tế Mỹ lại một lần nữa bị chao đảo ngày 19/10/1987 – “Ngày thứ Hai đen tối” trong lịch sử thị trường chứng khoán – khi thị trường này sụt giá tới 22,6% chỉ trong một ngày. Nguyên nhân của sự đổ vỡ này là do các khoản thâm hụt thương mại quốc tế lớn của Hoa Kỳ, các khoản thâm hụt trong ngân sách liên bang, các khoản nợ lớn của tư nhân và doanh nghiệp, và các kỹ thuật buôn bán chứng khoán được máy tính hóa cho phép bán chứng khoán và các hợp đồng tương lai ngay lập tức. Tuy nhiên, mặc dù sự đổ vỡ này gợi lại những ký Đức về năm 1929, nhưng thực ra nó chỉ là một sự kiện tạm thời và có rất ít ảnh hưởng. Trên thực tế, tăng trưởng kinh tế vẫn tiếp tục với tỷ lệ thất nghiệp giảm xuống 5,2% vào tháng 6/1988 – mức thấp nhất trong 14 năm qua.