Nước Mỹ sau Chiến tranh Thế giới thứ hai/6

Tủ sách mở Wikibooks

Chiến tranh Lạnh ở Châu Á và Trung Đông

Trong khi tìm cách ngăn ngừa hệ tư tưởng Cộng sản đang lan tràn ở châu Âu, Hoa Kỳ cũng phản ứng lại những thách thức tại nhiều khu vực khác trên thế giới. Ở Trung Quốc, người Mỹ lo ngại những bước tiến của Mao Trạch Đông và Đảng Cộng sản của ông. Trong Chiến tranh Thế giới Thứ hai, Chính phủ Quốc dân Đảng của Tưởng Giới Thạch và các lực lượng cộng sản đã gây ra cuộc Nội chiến, thậm chí ngay trong khi họ đang đấu tranh với quân Nhật. Tưởng Giới Thạch đã từng là đồng minh thời chiến, nhưng chính phủ Tưởng đã mất hiệu lực một cách vô vọng và đang thối nát vì nạn tham nhũng. Các nhà hoạch định chính sách của Mỹ chỉ có ít hy vọng duy trì được chế độ Tưởng Giới Thạch và coi châu Âu là một khu vực quan trọng hơn nhiều. Do phần lớn hỗ trợ của Mỹ đang tập trung ở bờ Đại Tây Dương, lực lượng Mao Trạch Đông cuối cùng đã giành được chính quyền vào năm 1949. Chính quyền Tưởng Giới Thạch đã chạy sang bán đảo Đài Loan. Khi Mao Trạch Đông tuyên bố rằng chế độ mới của ông sẽ ủng hộ Liên Xô để chống lại đế quốc Mỹ thì rõ ràng là chủ nghĩa cộng sản đã phát triển rộng rãi ngoài tầm kiểm soát của Hoa Kỳ, chí ít cũng là ở châu Á.

Cuộc Chiến tranh Triều Tiên đã làm bùng nổ cuộc xung đột vũ trang giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc. Khối Đồng minh đã phân chia Triều Tiên dọc theo vĩ tuyến 38 sau khi đã giải phóng nước này khỏi ách thống trị của Nhật Bản vào cuối Chiến tranh Thế giới Thứ hai. Vốn lúc đầu chỉ là để tiện lợi về quân sự, giới tuyến này đã ngày càng trở nên khắc nghiệt, hai cường quốc lớn đều lập chính phủ tại các khu vực chiếm đóng riêng rẽ của mình và tiếp tục ủng hộ các chính phủ đó, thậm chí ngay cả sau khi đã rút quân.

Tháng 6/1950, sau khi đã tham vấn và được sự ủng hộ về quân sự của Liên Xô, vị lãnh đạo Bắc Triều Tiên Kim-Il Sung đã chỉ huy các binh đội Bắc Triều Tiên vượt qua vĩ tuyến 38, và đánh về phía nam sau khi tràn qua Seoul. Nhìn nhận Bắc Triều Tiên là lực lượng thân cận do Liên Xô chỉ đạo trong cuộc chiến toàn cầu, Truman đã chuẩn bị cho các lực lượng vũ trang Mỹ sẵn sàng tham chiến và ra lệnh cho Tướng Doughlas McArthur – người hùng trong Chiến tranh Thế giới Thứ hai – tới Triều Tiên. Trong khi đó, Hoa kỳ đã thuyết phục được Liên Hợp Quốc ra nghị quyết coi Bắc Triều Tiên là kẻ xâm lược (Liên Xô, vốn có quyền phủ quyết trong Hội đồng Bảo an, đã tẩy chay Liên Hợp Quốc để phản đối quyết định không kết nạp nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa dưới thời Mao Trạch Đông vào tổ chức này).

Cuộc chiến tranh đã xảy ra ác liệt trong thế giằng co giữa hai phía. Quân đội Hoa Kỳ và Triều Tiên lúc đầu bị đẩy về phía nam ở vùng đất lọt giữa khu vực xung quanh thành phố Pusan. Cuộc đổ bộ táo bạo của lính thủy đánh bộ Mỹ từ ngoài biển tại Inchon, một cảng của thành phố Seoul, đã đẩy lui quân Bắc Triều Tiên và đe dọa chiếm đóng toàn bộ vùng bán đảo Triều Tiên. Vào tháng 11, Trung Quốc đã tham chiến và phái các lực lượng quân sự của mình vượt qua sông Yalu. Lực lượng Liên Hợp Quốc, mà chủ yếu là quân Mỹ, đã lại phải rút lui trong một trận đánh ác liệt. Dưới sự chỉ huy của Tướng Matthew B. Ridgway, quân Mỹ đã chặn đứng đường tiến của quân đội Trung Quốc, sau đó, dần dần giành lại con đường trở về với vĩ tuyến 38. Trong khi đó, Mac Arthur đã thách thức quyền lực của tổng thống Truman bằng cách kêu gọi sự ủng hộ của dân chúng trong việc ném bom Trung Quốc và hỗ trợ cho lực lượng Trung Hoa Dân Quốc của Tưởng Giới Thạch để tấn công Trung Quốc lục địa. Tháng 4/1951, Truman đã miễn nhiệm Mac Arthur và thay ông bằng Tướng Mathew Ridgeway.

Những rủi ro của Chiến tranh Lạnh là rất lớn. ý thức được về ưu tiên dành cho châu Âu, Chính phủ Mỹ đã quyết định ngừng đưa quân tới Triều Tiên và sẵn sàng đồng ý với hiện trạng trước chiến tranh. Điều này đã gây thất vọng cho nhiều người Mỹ vốn không thể hiểu được sự cần thiết của việc kiềm chế chiến tranh. Uy tín của Truman đã tụt xuống, với tỷ lệ ủng hộ 24% – mức thấp nhất kể từ khi có các cuộc thăm dò dư luận về uy tín của các tổng thống Mỹ. Những cuộc thương thuyết ngừng bắn được bắt đầu vào tháng 7/1951. Cuối cùng, cả hai bên đã đạt được thỏa thuận vào tháng 7/1953 trong nhiệm kỳ đầu của Dwight Eisenhower, tổng thống kế nhiệm Truman.

Những xung đột trong Chiến tranh Lạnh cũng xảy ra ở Trung Đông. Tầm quan trọng chiến lược của khu vực này với tư cách là một nguồn cung cấp dầu mỏ đã khiến Hoa Kỳ tìm mọi cách đẩy các đơn vị quân đội Xô-viết ra khỏi Iran năm 1946. Hai năm sau đó, Hoa Kỳ chính thức thừa nhận nhà nước Israel chỉ 15 phút sau khi nước này tuyên bố thành lập – một quyết định mà Truman đã đưa ra bất chấp sự phản đối mạnh mẽ từ phía Marshall và Bộ Ngoại giao. Kết quả là một tình huống khó xử kéo dài đã xảy ra – làm thế nào để duy trì quan hệ với Israel, đồng thời, vẫn phải giữ được mối bang giao tốt đẹp với các quốc gia Arập chống Israel (nhưng lại có nhiều dầu mỏ).