Nước Mỹ bước sang thế kỷ 21/3

Tủ sách mở Wikibooks

Chính sách đối nội mới

Tổng thống Clinton chọn một chủ trương ôn hòa. Trên thực tế, chủ trương ôn hòa của Clinton yêu cầu phải có các lựa chọn nhiều lúc lại gây ra trong dân chúng những tình cảm mạnh mẽ. Ông trước tiên đã thực hiện một sáng kiến chính sách thỏa mãn nhu cầu của những người đồng tính, vốn là nạn nhân của nạn kỳ thị. Cũng vì thế mà nhóm người đồng tính đã ủng hộ mạnh mẽ đảng Dân Chủ và trở thành một khu vực cử trị quan trọng ủng hộ cho đảng này.

Rất nhanh, ngay sau diễn văn nhậm chức, tân Tổng thống Clinton đã xóa bỏ quy định có từ bao lâu nay về việc sa thải những quân nhân ra khỏi quân đội khi bị phát hiện là người đồng tính. Quân đội, nhiều tầng lớp trong xã hội và đặc biệt là đảng Cộng Hòa ngay lập tức lên tiếng chỉ trích quyết định này của Tổng thống. Tổng thống Bill Clinton đã nhanh chóng điều chỉnh sắc lệnh này bằng một sắc lệnh "không hỏi, không nói", trên thực tế là phục hồi lại chính sách cũ nhưng không khuyến khích chủ động điều tra về đời sống tình dục của các quân nhân.

Có một sự thụt lùi khá lớn trong nỗ lực hoàn thiện chương trình y tế quốc gia. Vì vậy mà chính phủ đã cho phép thành lập một nhóm chuyên lớn do Đệ nhất phu nhân Hillary Clinton đứng đầu và bao gồm các nhà trí thức chính sách nổi tiếng cùng các nhà hoạt động chính trị làm việc trong nhiều tháng để xây dựng một chương trình y tế nhằm cung cấp bảo hiểm y tế cho mọi người dân Mỹ.

Giả định của kế hoạch này là một kế hoạch người được trả tiền duy nhất do chính phủ quản lý có thể cung cấp dịch vụ y tế trên toàn lãnh thổ một cách hiệu quả hơn so với hệ thống phi tập trung hiện hành – một hệ thống với hàng nghìn công ty bảo hiểm và hàng nghìn nhà cung cấp dịch vụ gián tiếp. Tuy nhiên, vào tháng 9/1993, khi được đưa ra Quốc hội, kế hoạch này đã phản ánh sự phức tạp vốn là bản chất của chăm sóc y tế. Phần lớn các đảng viên Cộng hòa và một vài người thuộc Đảng Dân chủ đã chỉ trích kế hoạch này là một sự tiếp quản vô vọng của nhà nước đối với nền y học Mỹ. Sau một năm tranh cãi, kế hoạch này đã thất bại vì không được một ai trong Quốc hội bỏ phiếu thông qua.

Clinton đã thành công hơn ở lĩnh vực khác khi ông khôi phục sự thịnh vượng của nền kinh tế Mỹ. Vị Tổng thống tiền nhiệm, George Bush, đã đàm phán Hiệp định Thương mại Tự do Bắc Mỹ (NAFTA) nhằm xây dựng một khu vực thương mại hoàn toàn tự do giữa Mỹ, Canađa và Mexico. Các khu vực cử tri quan trọng của Đảng Dân chủ tỏ ý phản đối Hiệp định này. Các công đoàn tin rằng Hiệp định này có thể khuyến khích xuất khẩu việc làm và làm xói mòn các tiêu chuẩn lao động của Mỹ. Những nhà môi trường thì lo ngại rằng Hiệp định này sẽ khiến các ngành công nghiệp của Mỹ chuyển dịch đến những quốc gia yếu kém hơn trong kiểm soát ô nhiễm. Đây là những biểu hiện đầu tiên của một làn sóng ngày càng dâng cao của cánh hữu trong đời sống chính trị Mỹ nhằm chống lại viễn cảnh về một hệ thống kinh tế thế giới hội nhập.

Tuy nhiên, Tổng thống Clinton lại đồng ý với luận điểm cho rằng thương mại tự do sẽ mang lại lợi ích cho tất cả các bên vì nó tạo điều kiện thuận lợi cho các dòng chảy lớn hơn và hiệu quả hơn về hàng hóa và dịch vụ. Chính quyền của ông không chỉ đệ trình NAFTA trước Nghị viện, mà còn ủng hộ việc xây dựng một hệ thống thương mại quốc tế tự do hơn và được quản lý bởi Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Sau một cuộc tranh luận nảy lửa, Quốc hội đã thông qua NAFTA năm 1993 và thông qua việc Mỹ trở thành thành viên của WTO một năm sau đó.

Mặc dù trong cuộc vận động tranh cử của mình, Clinton đã nói về một chương trình cắt giảm thuế cho tầng lớp trung lưu nhưng ông vẫn đề xuất trước Quốc hội một ngân sách đòi hỏi phải tăng thuế rộng rãi. Ban đầu, chương trình này bao gồm việc tăng thuế rộng rãi đối với tiêu thụ năng lượng nhằm mục đích bảo vệ môi sinh, nhưng sau đó đã nhanh chóng được thay thế bởi việc tăng thuế danh nghĩa trong tiêu thụ khí đốt trên toàn quốc. Chương trình này cũng đánh thuế lên lợi tức bảo hiểm xã hội đối với người thụ hưởng có thu nhập cao và trung bình. Tuy nhiên, quan trọng nhất là việc tăng thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao. Một cuộc tranh cãi sôi nổi lại diễn ra giữa những người ủng hộ giảm thuế và những người ủng hộ trách nhiệm thuế khóa vốn rất điển hình trong nhiệm kỳ tổng thống của Ronald Reagan. Cuối cùng, Clinton cũng đã đạt được mong muốn của mình, nhưng chỉ với một chiến thắng sát sao. Chương trình thuế khóa của ông đã được Hạ viện thông qua với chỉ một phiếu thừa.

Đúng lúc đó, các chiến dịch bầu cử Quốc hội năm 1994 bắt đầu khởi động. Mặc dù Chính quyền Clinton đã đưa ra rất nhiều quyết định về chính sách đối ngoại, nhưng những vấn đề đối nội rõ ràng là quan trọng nhất đối với các cử tri. Các đảng viên Cộng hòa chỉ trích Clinton và các đảng viên Dân chủ là đã không cải cách thuế khóa và chi tiêu chính phủ. Chính bản thân Clinton cũng đang bị mắc kẹt do bị buộc tội về một dự án bất động sản ở Arkansas trước kia đang bị kết luận là có vấn đề về tài chính; đồng thời, phải đương đầu với những lời buộc tội mới về quan hệ tình dục không lành mạnh. Vào tháng 11, lần đầu tiên kể từ cuộc bầu cử năm 1952, các cử tri đã trao cho Đảng Cộng hòa quyền kiểm soát ở cả hai Viện trong Quốc hội. Nhiều nhà quan sát đã tin rằng Bill Clinton sẽ chỉ giữ chức tổng thống trong một nhiệm kỳ. Tuy nhiên, bằng việc đưa ra một quyết định phù hợp với thực tế chính trị mới, Clinton đã dung hòa cuộc chạy đua chính trị của mình. Ông chỉ đưa ra rất ít sáng kiến chính sách trong thời gian còn lại của nhiệm kỳ tổng thống. Trái với dự báo của Đảng Cộng hòa về việc kinh tế Mỹ sẽ ảm đạm, chính sách tăng thuế năm 1993 đã không cản được sự tăng trưởng vững chãi của nền kinh tế Mỹ.

Ngược lại, những người lãnh đạo mới của Đảng Cộng hòa trong cả hai Viện lại gây sức ép lớn trong việc hoàn tất những mục tiêu chính sách của họ, ngược hẳn lại với chủ trương ôn hòa mới của chính quyền. Khi các phần tử cực đoan cánh tả cho nổ bom một tòa nhà Liên bang tại thành phố Oklahoma vào tháng 4/1995, Clinton đã trả lời với một giọng ôn hòa, nhấn mạnh quan điểm của ông và làm dịu những kẻ bảo thủ mang tư tưởng chống đối. Vào cuối năm đó, ông đã bỏ phiếu phủ quyết chương trình ngân sách do Đảng Cộng hòa đưa ra khiến chính phủ bị đóng băng trong nhiều tuần. Đa số dân chúng đều bày tỏ thái độ lên án Đảng Cộng hòa.

Tuy nhiên, Tổng thống cũng vẫn tham gia vào các chương trình của Đảng Cộng hòa. Trong thông điệp liên bang tháng 1/1996, ông đã tuyên bố hùng hồn rằng “Thời đại của một chính phủ lớn đã qua rồi”. Mùa hè năm đó, trong cuộc vận động tái tranh cử của mình, ông đã ký duyệt một chương trình cải cách quan trọng – vốn là sáng kiến do Đảng Cộng hòa đưa ra. Vốn có mục tiêu chấm dứt việc trợ cấp vĩnh viễn cho những người nhận trợ cấp nhằm buộc họ phải tìm kiếm việc làm, sáng kiến này bị nhiều đảng viên trong chính Đảng Dân chủ của ông phản đối. Nhìn chung, chương trình này cũng đã thu được những thành công nhất định trong thập niên sau đó.