Hệ sinh thái rừng tự nhiên chủ yếu ở Việt Nam/Rừng kín thường xanh mưa ẩm nhiệt đới/Cấu trúc rừng/Cấu trúc tổ thành

Tủ sách mở Wikibooks


Kiểu phụ miền thực vật thân thuộc với khu hệ thực vật Malaysia-Indonesia, ưu hợp họ Dầu (Dipterocarpaceae)[sửa]

  • Phân bố: Kiểu phụ miền này phân bố rất rộng. Ở miền Bắc Việt Nam, chúng phân bố dưới độ cao so với mặt biển từ 600-700m, ở Nam Trung Bộ dưới độ cao 800-900 m và ở Nam Bộ dưới độ cao 1.000m. Ngoài ra, còn có thể tìm thấy kiểu phụ này ở các thung lũng giữa các núi đá vôi và vùng thấp ven các sông lớn
  • Cấu trúc tổ thành loài cây gỗ lớn: Đặc trưng cơ bản dễ nhận biết của kiểu phụ này là độ ưu thế của các loài cây họ Dầu (Dipterocarpaceae) ở các tầng trên, nhất là tầng vượt tán và tầng tán rừng. Phần lớn các loài cây rừng đều thường xanh như Sao đen (Hopea odorata), Kiền kiền (Hopea pierrei), Săng đào (Hopea ferrea ), Táu mặt quỷ (Hopea mollissima), Táu lá nhỏ (Vatica tonkinensis), Táu muối (Vatica fleuryana), Chò đen (Parashorea stallata) v.v... Ở miền Nam, đặc biệt là Tây Nguyên, loài cây tiêu biểu cho họ Dầu là cây Dầu rái (Dipterocarpus alatus), Dầu đồng (Dipterocarpus turberculatus).

Ngoài cây họ Dầu (Dipterocarpaceae), còn có những loài cây bản địa thường xanh thuộc các chi:

  • Sindora, Ormosia, Cassia,... thuộc họ Đậu (Leguminosae)
  • Lithocarpus, Castanopsis, Quercus,... thuộc họ Dẻ (Fagaceae)
  • Syzygium, Eugenia thuộc họ Sim (Myrtaceae)
  • Camellia, Terstoemia, Schima thuộc họ Chè (Theaceae)
  • Garcinia, Mesua, Calophyllum thuộc họ Bứa (Clusiaceae)
  • Dracotomelum, Bouea,... thuộc họ Xoài (Anacardiaceae)
  • Aglaia, Aphanamixis, Dysoxylon, Chisocheton thuộc họ Xoan (Meliaceae)

Tổ thành loài cây bụi thường bao gồm những loài cây thuộc các chi

  • Psychotria, Prismatomeris, Pagetta, Ixora, Lasianthus,... thuộc họ Cà phê (Rubiaceae)
  • Ervatamia, Tabermontana, Rauwolfia,... thuộc họ Trúc đào (Apocynaceae)
  • Ardisia, Maesa,... thuộc họ Đơn nem (Myrsinaceae)
  • Polyalthia,... thuộc họ Na (Annonaceae)
  • Diospyros,... thuộc họ Thị (Ebenaceae)
Ngoài ra còn có nhiều đại diện thuộc họ Dừa (Palmae)

Tổ thành tầng cỏ quyết có nhiều dương xỉ

Đặc trưng cấu trúc cơ bản nhất của kiểu hệ sinh thái rừng này là có tổ thành loài cây hỗn giao phức tạp nhiều tầng, hình thành nên nhiều phức hợp trong đó có cả ưu hợp, thậm chí cả những quần thể rừng tự nhiên gần như thuần loài. Dưới đây chỉ giới thiệu những ưu hợp thực vật rừng của những loài cây đặc hữu có giá trị kinh tế.

Các ưu hợp:

  • Ưu hợp Sao đen (Hopea odorata)
Theo Maurand (1943), rừng sao nguyên sinh có ở Nha Trang. Thái Văn Trừng (1952) cũng phát hiện rừng sao tự nhiên gần như thuần loài ở dốc Bút giữa Huế và Đà Nẵng, độ cao so với mực nước biển khoảng 500 - 600 m. Trên vĩ độ 16 độ Bắc bán cầu, chưa phát hiện thấy sao mọc tự nhiên. Sao là loài cây ưa sáng, đòi hỏi đất phải tốt, sâu, ẩm. Sao trồng tại phố Lò Đúc (Hà Nội) làm cây xanh bóng mát, sinh trưởng thân thẳng đẹp nhưng ra hoa kết quả kém. Điều này chứng tỏ Hà Nội và miền Bắc nói chung không còn là vùng phân bố tự nhiên của loài cây Sao đen. Sao là loài cây rừng nhiệt đới có giá trị, gỗ tốt dùng trong xây dựng, đóng tầu thuyền, cần được nghiên cứu bảo tồn, xúc tiến tái sinh tự nhiên và gây trồng phát triển.
  • Ưu hợp Kiền kiền (Hopea pierrei)
Kiền kiền là loài cây đặc hữu xuất hiện ở vùng trung gian giữa hai khu hệ thực vật Bắc và Nam. Schmid đã phát hiện kiền kiền trong quần thể rừng thường xanh mưa ẩm nhiệt đới ở vùng thượng du Nam Bộ và nam Trường Sơn. Ở miền Bắc, Kiền kiền phân bố đến Quỳ Hợp, Nghĩa Đàn (Nghệ An) và Như Xuân (Thanh Hoá). Có thể xác định giới hạn phía Bắc của loài cây kiền kiền đến vĩ tuyến 20 độ Bắc bán cầu và ở dưới độ cao 350 m so với mực nước biển. Về điều kiện đất, ưu hợp này phát triển chủ yếu trên đất đỏ vàng Feralit và cũng có thể phát triển trên đất do đá vôi phong hoá.
Kiền kiền có thể tham gia vào quần thể với tư cách là loài cây ưu thế, có khi chiếm đến 70% cá thể ở tầng vượt tán. Chiều cao có thể đạt đến 23-25 m và đường kính trên 40 cm. Ở miền Nam, chúng mọc hỗn giao với một số loài cây họ Dầu (Dipterocarpaceae) và ở Nghệ An mọc hỗn giao với các loài cây Chò chỉ (Parashorea chinensis), Lim xanh (Erythrophleum fordii Olive)... Kiền kiền tái sinh mạnh ở những quần thể rừng có độ tàn che khoảng 0,6-0,7 với đại diện ở nhiều kích thước khác nhau. Kiền kiền là loài cây rừng bản địa đặc hữu có giá trị gỗ tốt, đẹp dùng trong xây dựng, đóng tầu thuyền, trang trí nội thất... Cần nghiên cứu bảo tồn, xúc tiến tái sinh tự nhiên loài cây này từ vĩ tuyến 20 độ Bắc trở vào.
  • Ưu hợp Chò chỉ ( Parashorea chinensis)
Chò chỉ là loài cây rừng đặc hữu ở vùng quá độ trung gian giữa hai khu hệ thực vật Nam và Bắc. Tuy nhiên, phân bố tự nhiên loài chò chỉ có thể đến các thung lũng, lưu vực các sông ở Lào Cai, Yên Bái, Tuyên Quang, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Ninh Bình, Thanh Hoá, Nghệ An... Phân bố tự nhiên theo độ cao của loài cây Kiền kiền tại Nghĩa Đàn (Nghệ An) đạt đến độ cao 300 m so với mực nước biển. Chưa có tài liệu nào phát hiện chò chỉ ở khu hệ thực vật Vân Nam - Quảng Tây (Trung Quốc), vì vậy có thể khẳng định đây là loài cây đặc hữu của khu hệ thực vật Việt Nam.
Chò chỉ tham gia vào thành phần của quần thể rừng thường xanh, phân bố từ vĩ độ 16 - 22 độ Bắc trên các loại đất đỏ vàng Feralit, yêu cầu độ ẩm đất lớn nên thường xuất hiện trong các thung lũng giữa các triền núi đá vôi, ven khe suối, sông ngòi. Chò chỉ là loài cây thường xanh nhưng trong những năm khô rét kéo dài cũng rụng lá đồng loạt. Thân thẳng tròn, cao đến 40 - 50 m chiếm vị trí tầng vượt tán A1. Chò chỉ có thể mọc hỗn giao với Lim xanh (Erythrophoeum fordii Olive) và các loài cây rừng khác tạo thành một quần thể kín rậm có độ tàn che đến 0,7 - 0,8. Tái sinh cây mạ chò chỉ dưới tán rừng có nhiều nhưng cây con, cây nhỡ có rất ít. Điều đó chứng tỏ cậy mạ chò chỉ có khả năng chịu bóng, nhưng khi lớn lên nhu cầu ánh sáng ngày càng nhiều nên không thể tồn tại được dưới tán rừng. Chò chỉ là loài cây đặc hữu có giá trị cao, gỗ cứng bền, ít bị mối mọt dùng để đóng thuyền, làm cột buồm và các công trình xây dựng. Cần nghiên cứu bảo tồn, xúc tiến tái sinh và gây trồng phát triển loài cây này.
  • Ưu hợp Chò nâu (Dipterocarpus tonkinensis)
Ưu hợp Chò nâu phân bố ở Phú Thọ, Yên Bái, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Thanh Hoá... Đây là vùng thấp có khí hậu ẩm ướt. Chò nâu cao đến 35 - 40 m thường chiếm vị trí tầng vượt tán trong quần thể. Cây ra hoa kết quả hàng năm, sai quả, hạt dễ nảy mầm, có khả năng phát tán hạt giống đi xa nhờ quả có cánh. Gỗ Chò nâu không cứng như Chò chỉ nhưng nếu bảo quản tốt thì có thể sử dụng để đóng thuyền. Một số địa phương ở Phú Thọ đã trồng Chò nâu hỗn giao với Mỡ (Manglietia conifera) trên đất rừng còn tốt ẩm.
  • Ưu hợp Dầu rái (Dipterocarpus alatus)
Ưu hợp này phân bố chủ yếu ở miền Nam, từ Quảng Nam đến miền Đông Nam Bộ, đặc biệt có nhiều ở Tây Nguyên. Vũ Đức Minh (1963) phát hiện ưu hợp Dầu rái ở Bố Trạch (Quảng Bình) Trong kiểu thảm thực vật rừng kín thường xanh, Dầu rái và Vên vên (Anisoptera costata) thường chiếm vị trí tầng A1. Những ưu hợp cây họ Dầu (Dipterocarpaceae) sẽ được trình bầy ở mục 8.3.5. Hệ sinh thái rừng thưa cây họ Dầu (còn gọi là rừng khộp).
  • Ưu hợp Táu mặt quỷ (Hopea mollissima)
Ưu hợp này có nhiều ở Hương Sơn (Hà Tĩnh). Táu mặt quỷ chiếm ưu thế trong quần thể rừng kín tán với độ tàn che 0,7-0,8, chiều cao đạt tới 30-35 m, mang đặc trưng điển hình của cây rừng nhiệt đới là có bạnh vè cao đến 5-6 m. Táu mặt quỷ mọc hỗn giao với sấu (Dracontomelum duperreanum) và một số loài cây khác thuộc các chi Lindera, Litsea, Phoebe, Cinnamomum chiếm vị trí tầng A1 . Tầng A2 gồm một số loài cây như Nang trứng (Horsfieldia amygdalina), Máu chó (Knema conferta), Trâm (Syzygium sp.). Tầng A3 có Bứa (Garcinia oblongifolia), Ngát (Gironniera subaequalis), Trám trắng (Canarium album), Re (Cinnamomum sp.). Tầng cây bụi cao từ 5-7 m, thưa thớt gồm loài cây Nhọ nồi (Diospyros filipendula), Chẩn (Microdesmis caeserfolia),..., một số loài cây trong họ Na (Annonaceae), một số loài trong chi Litsea thuộc họ Re (Lauraceae). Tầng cỏ quyết rậm rạp gồm các loài dương xỉ thuộc các chi Asplenium, Diplazium, Tectaria... Thực vật phụ sinh có nhiều, đặc biệt có loài đa (Ficus) mọc trên các cây táu, cọ, sấu. Gỗ Táu mặt quỷ cứng bền được sử dụng trong xây dựng và đóng thuyền. Cần xúc tiến tái sinh tự nhiên, có thể trồng trên đất rừng mới khai thác nhưng phải trồng hỗn loài với những loài cây mục đích khác hoặc cây phù trợ.
  • Ưu hợp Táu muối (Vatica fleuryana)
Ưu hợp này phân bố ở độ cao từ 300-800 m nhưng phân bố tập trung ở độ cao từ 600-700 m (theo Viện Điều tra Quy hoạch rừng) trên đất Feralit vàng đỏ có tầng đất khá dày. Ưu hợp này có nhiều ở Hương Sơn (Hà Tĩnh). Tổ thành loài cây của ưu hợp này phức tạp nhưng Táu muối vẫn chiếm ưu thế, độ tàn che của rừng 0,7-0,8, tầng tán liên tục. Ngoài táu muối còn có Táu mặt quỷ, Lim xanh (Erythrophloeum fordii Olive), một số loài cây trong họ Dẻ (Fagaceae), họ Re (Lauraceae)... Ở tầng dưới tán, Táu muối không chiếm ưu thế rõ rệt. Tầng cây bụi thảm tươi thưa thớt, Tái sinh tốt nhưng phần lớn là cây mạ, chứng tỏ độ tàn che cao chỉ thích hợp cho những loài cây mạ có khả năng chịu bóng. Cây con và cây nhỡ tái sinh thiếu ánh sáng không tồn tại được. Gỗ Táu muối không bền, dễ bị mục nên cần được bảo quản trước khi sử dụng.
  • Ưu hợp Táu mật lá nhỏ + Táu muối (Vatica tonkinensis + Vatica fleuryana)
Ưu hợp này từng được bắt gặp tại Kỳ Lân (Tuyên Quang) ở độ cao 480m so với mực nước biển. Táu mật lá nhỏ và táu muối chiếm ưu thế trong tổ thành tầng cây gỗ, cây cao đến 30m, hỗn giao với Trám trắng (Canarium album), Máu chó (Knema conferta), Lòng mang (Pterospermum lancaefolium)...
Tầng cây bụi thấp gồm có các loài Gordonia sp, Ardisia sp, Alchornea rugosa, Psychotria montana, Chloranthus sp, Antidesma, Strobilanthes...
Tầng cỏ quyết gồm có các loài Panicum sp, Tectaria, Abacopteris, Scleria...
Ưu hợp này còn được bắt gặp tại Vũ Lễ (Thái Nguyên). Ở đây, Táu mật lá nhỏ mọc hỗn giao với Sến mật (Madhuca pasquieri), Trám đen (Canarium nigrum), Ràng ràng mít (Ormosia balansae), re (Cinnamomun sp.), kháo (Phoebe sp.), Ngát (Gironniera subacqualis), Lọng bàng (Dillennia heterosealpa), Bứa (Garcinia oblongifolia)...
Tầng cây bụi gồm có các loài Ardisia conjugate, Psychotria montana, Phyllostachys sp, Melastoma sp, Annona sp...
Tầng cỏ quyết có Tectaria quintaphylla, Selaginella rependa, Diplajium sp, Scleria herbacarpa...
Cả hai ưu hợp này đều có Táu mật lá nhỏ tái sinh, cây cao đến 1-2m, cây mạ nhiều nhưng cây con và cây nhỡ ít. Loài cây này cũng chỉ chịu bóng trong giai đoạn còn nhỏ. Gỗ Táu mật lá nhỏ cứng bền được sử dụng trong các công trình xây dựng và đóng thuyền
  • Ưu hợp Vên vên (Anisoptera costata)
Ưu hợp này xuất hiện trong kiểu rừng lá rộng thường xanh mưa ẩm nhiệt đới vùng thấp. Việt Nam có hai loài vên vên (Anisoptera costata và Anisoptera glabra) đều thuộc họ Dầu. Chúng mọc hỗn giao với Dầu rái (Dipterocarpus alatus).
Trong kiểu rừng kín lá rộng thường xanh mưa ẩm nhiệt đới còn có nhiều ưu hợp cây họ Dầu thuộc kiểu phụ miền thực vật Malaysia - Indonesia nhưng chưa phát hiện được hết, cần nghiên cứu bổ sung.

Kiểu phụ miền thực vật thân thuộc khu hệ thực vật Bắc Việt Nam - Nam Trung Hoa[sửa]

Kiểu phụ miền này thường ở vùng thấp, ở miền Bắc dưới độ cao 700 m so với mực nước biển và trên đường đẳng nhiệt tháng lạnh nhất 20o C; ở miền Nam ở vùng thấp ẩm, dưới độ cao 1.000 m so với mực nước biển thuộc dãy Trường Sơn

  • Ưu hợp họ Re (Lauraceae)
  • Ưu hợp họ Dẻ (Fagaceae)
  • Ưu hợp họ Xoan (Meliaceae)
  • Ưu hợp họ Dâu tằm (Moraceae)
  • Ưu hợp họ Mộc Lan (Magnoliaceae)
  • Ưu hợp họ Đậu (Leguminosae)
  • Ưu hợp họ Xoài (Anacardiaceae)
  • Ưu hợp họ Trám (Burseraceae)
  • Ưu hợp họ Bồ hòn (Sapindaceae)
  • Ưu hợp họ Hồng xiêm (Sapotaceae)
  • ...

Tổ thành loài cây phần lớn là thường xanh có xen lẫn một số loài cây rụng lá, không có tầng vượt tán rõ rệt, cây có bạnh vè lớn. Tầng cây bụi thấp nhiều cây thuộc họ Cọ dừa (Palmaceae), họ phụ Tre nứa (Bambusoidae). Dây leo thân gỗ và thực vật phụ sinh (phong lan), môn ráy,... có nhiều

Hai loại hình thực vật khí hậu ở đai thấp dưới 300 m so với mực nước biển cũng được phát hiện là ưu hợp Lim xanh (Erythrophoeum fordii Olive) từ đèo Ngang trở ra và ưu hợp gụ + huỷnh (Sindora cochinchinensis + Tarrietia javanica) từ đèo Ngang trở vào. Ở vành đai cao 300 - 700 m có ưu hợp Sến + Táu (Madhuca pasquieri + Hopea mollissima).

Vành đai á nhiệt đới vùng núi có ưu hợp Dẻ (Castanopsis). Những ưu hợp họ trong kiểu phụ miền này còn có nhiều nhưng chưa phát hiện hết.

Kiểu phụ thổ nhưỡng[sửa]

Đây là kiểu thảm thực vật rừng phụ hình thành do điều kiện thổ nhưỡng quyết định, mặc dù có chung điều kiện khí hậu như các kiểu thảm thực vật khác.

  • Kiểu phụ thổ nhưỡng kiệt nước trên núi đá vôi: Hệ sinh thái rừng trên núi đá vôi là một thí dụ điển hình.
  • Kiểu phụ thổ nhưỡng úng nước mặn: Hệ sinh thái rừng ngập mặn là một thí dụ điển hình.