Các đời vua Việt Nam/Nhà Hậu Lê-Lê Sơ
Giao diện
Lê Thái Tổ (1428 – 1433) : năm 1428, Lê Lợi tập hợp anh hùng hào kiệt, phất cờ khởi nghĩa, sử gọi là Khởi nghĩa Lam Sơn. Ông cũng tự xưng là Bình Định Vương, kêu gọi nhân dân đứng lên chống giặc Minh cứu nước. Năm 1427, ông đã lãnh đạo quân đội đánh tan 15 vạn quân cứu viện và chém chết Liễu Thăng. Năm 1428 ông lên ngôi hoàng đế, tức Lê Thái Tổ.
Lê Thái Tông (1433 – 1442) : năm 1433, vua Lê Thái Tổ băng hà, con thứ là thái tử Lê Nguyên Long lên kế ngôi khi được 11 tuổi. Từ nhỏ ông đã tỏ ra là vị vua anh minh sáng suốt, có tài nhìn xa trông rộng, tuy tuổi nhỏ nhưng tự mình cầm quyền chấp chính. Tuy nhiên ông cũng là một vị vua hiếu sắc, đa tình và thảm cảnh là cái chết để lại một nghi án lớn trong lịch sử, đó là vụ án Lệ Chi Viên.
Lê Nhân Tông (1442 – 1459) : năm 1442, vua Lê Thái Tông băng hà một cách bí ẩn tại Lệ Chi Viên, thái tử Lê Bang Cơ lên ngôi vua, tức Lê Nhân Tông, thái hậu là Nguyễn Thị Anh nhiếp chính. Ông là vị vua nhân từ, bác ái, trọng đãi công thần, hiếu đễ Thái hậu, thương yêu anh em. Thân thế của ông vẫn còn là một bí ẩn. Tương truyền rằng, ông không phải là con vua Thái Tông. Trước khi mẹ ông vào cung, thì bà đã có thai với một người tên là Lê Bang Sơn. Đó cũng là lý do khiến ông bị anh mình là Lê Nghi Dân ám sát.
Thiên Hưng Đế Lê Nghi Dân ( 7/10/1459-6/6/1460 ) : sau khi giết chết vua Nhân Tông, Nghi Dân lên ngôi, làm vua được 8 tháng, tuy nhiên sử sách không công nhận ngôi vua của Nghi Dân.
Lê Thánh Tông (1460 – 1497) : Năm 1460 các công thần trụ cột nổi dậy, lật đổ Nghi Dân và đưa con thứ 4 của vua Thái Tông là Lê Tư Thành lên ngôi hoàng đế, tức Lê Thánh Tông. Ông là một bậc minh quân và là vị vua đã đưa nước Đại Việt phát triển đến thời cực thịnh. Bên trong ông chú trọng giáo dục, trọng dụng hiền tài. Bên ngoài ông chú trọng mở mang bờ cõi. Trong thời kỳ này với việc Tây tiến và Nam tiến của mình, Đại Việt đã mở mang bờ phía Nam xuống tận Quãng Nam. Các nước lân bang như Chiêm Thành, Ai Lao, Chân Lạp, Lan xang, Chiang Mai, Melaka (thuộc Malaysia ngày nay), Java (thuộc Indonesia ngày nay) đều trở thành chư hầu và đều có nghĩa vụ nộp cống cho Đại Việt. Tuy Đại Việt vẫn giữ thói quen xưa là xưng thần với nhà Minh nhưng với thanh thế lững lẫy của mình lúc đó khiến nhà Minh vẫn không dám khinh động mà dùng lễ để đối đãi với Đại Việt.
Lê Hiến Tông (1497 – 1504) : năm 1947, vua Thánh Tông băng hà, con trưởng là Lê Tranh lên kế vị, tức Lê Hiến Tông. Ông là vị vua thông minh, nhân từ và ôn hòa nên giữ được sự thịnh trị thái bình, thiên hạ bình an. Lê Túc Tông (17/7/1504-12/1/1505) : năm 1504 Lê Hiến Tông bị bệnh nặng băng hà, con là Lê Thuần lên ngôi, tức Lê Túc Tông. Ông là vị vua hiền, hiếu học, thân người hiền nhưng đáng tiếc là chỉ ở ngôi có 6 tháng.
Lê Uy Mục (1505 – 1509) : cuối năm 1504, vua Lê Túc Tông băng hà. Theo ký thác của vua Túc Tông anh của ông là Lê Tuấn lên kế vị, tức Lê Uy Mục. Uy Mục là một hôn quân ăn chơi sa đọa, ham mê tửu sắc, tàn bạo giết hại nhiều trung thần khiến quần thần phẩn nộ.
Lê Tương Dực (1509 – 1516) : năm 1509 Giản Tu công Lê Oanh là cháu nội vua Thánh Tông, con của Kiến Vương Lê Tân nổi dậy đem quân đánh Đông Kinh (Hà Nội), bắt giết Lê Uy Mục. Sau đó Oanh lên ngôi vua, tức Lê Tương Dực. Vua ban đầu còn chăm lo việc nước, sau ăn chơi vô độ làm triều đình rối ren, phản loạn khắp nơi.
Lê Chiêu Tông (1516 – 1522) : năm 1516 Trịnh Duy Sản đã giết chết vua Tương Dực, lập con người anh của Tương Dực là Lê Y lên làm vua, tức Lê Chiêu Tông. Lúc này quyền thần họ Trần, Trịnh, Mạc lộng hành, nổi loạn khắp nơi.
Lê Cung Hoàng (1552 – 1527) : năm 1522 trước loạn quyền thần Mạc Đăng Dung, vua Chiêu Tông phải trốn đi. Dung liền lập em của Chiêu Tông là Lê Xuân lên ngôi, tức Lê Cung Hoàng. Vua Cung Hoàng chỉ là vị vua bù nhìn được Mạc Đăng Dung dựng lên để được chính danh. Năm 1526 Mạc Đăng Dung giết được Chiêu Tông, nửa năm sau họ Mạc ép Cung Hoàng nhường ngôi và bất tử chết. Từ đây nhà Lê chỉ còn tồn tại trên danh nghĩa, không còn thực quyền. Đất nước bị chia cắt thành Nam-Bắc triều.