Sách tôn giáo/Kitô giáo/Lịch sử Hình thành và phát triển Kitô giáo

Tủ sách mở Wikibooks

Kitô giáo được biết đến từ thế kỷ thứ nhất khi các môn đồ của Giêsu được gọi là Kitô hữu tại thành Antiochia xứ Syria (nay thuộc Thổ Nhĩ Kỳ), nơi họ đến để lánh nạn và định cư sau những cuộc bức hại đầu tiên tại xứ Judea. Nền thần học của Kitô giáo sơ khai được thành lập và truyền bá bởi sứ đồ Phaolô và các sứ đồ khác.

Hội thánh sơ khai[sửa]

Trong suốt ba thế kỷ đầu tiên, Kitô giáo lan truyền nhanh chóng trong khu vực Địa Trung Hải và được truyền bá ra cả bên ngoài Đế quốc La Mã:

Vào thuở Kitô giáo sơ khởi, một tín hữu có thể vẽ một cung trên đất khi gặp một người khác, nếu chia sẻ cùng niềm tin, người này sẽ vẽ tiếp một cung nữa để hoàn chỉnh hình con cá (Ichthys), một biểu trưng của Kitô giáo.

Vào thời kỳ ban đầu, Hội thánh bao gồm hai cộng đồng: Do Thái và Hy Lạp. Trong khi cộng đồng Do Thái, phần đông là các tín hữu gốc Do Thái, muốn duy trì một số tập tục và nghi thức của Do Thái giáo (Judaism) như phép cắt bì và một số kiêng cữ khác thì cộng đồng Hy Lạp, những người chịu ảnh hưởng từ thế giới nói tiếng Hy Lạp, tin rằng thông điệp của Kitô giáo nên được truyền bá theo các phương pháp thích hợp hơn với thế giới Hellenistic bên ngoài.

Một trong những nhà trước tác quan trọng đầu tiên của Kitô giáo, Tertullianus, đã viết cho một quan tổng đốc Đế chế La Mã về sự phát triển của Kitô giáo tại Carthago rằng mới hôm qua họ chỉ là một nhóm nhỏ, "nay có mặt khắp mọi nơi – các đô thị, hải đảo, trong thành lũy, thị trấn, chợ, ngay cả trong trại lính, tại các bộ tộc, lâu đài, nghị viện; chúng tôi chẳng để lại gì cho quý vị ngoại trừ các nơi thờ phụng các thần linh của quý vị mà thôi." (Bài biện giáo viết tại Carthago, năm 197).

Trong vòng vài thế kỷ đầu tiên, các Giáo Phụ, là các nhà thần họctriết học khoa bảng, như Justinô Tử đạo, OrigenesAugustinus đã phát triển nền thần học và triết học Kitô giáo.

Suốt thời kỳ này, trong khi đang phát triển mạnh mẽ, Hội thánh cũng phải trải qua các cơn bách hại. Ngay từ những ngày đầu tiên, Kitô giáo là mục tiêu của những sự bách hại, dẫn đến sự tử đạo của Stêphanô Những đợt bách hại ở quy mô lớn hơn, dù không thường xuyên nhưng dữ dội, xảy ra dưới thời trị vì của các hoàng đế La Mã như Nero, Valerianus, DiocletianusGalerius. Cuộc đời của những người tử đạo, thà chết chứ không chối bỏ đức tin, trở nên biểu trưng cho đức hạnh cao quý nhất. Các bản dịch Kinh Thánh sớm nhất bắt đầu xuất hiện, danh sách quy điển Tân Ước được đồng thuận. Hệ thống phẩm trật được củng cố: các giám mục thành Roma, AlexandriaAntiochia đều được công nhận danh hiệu Trưởng phụ.

Tượng Constantinus Đại đế tại York, Anh, gần địa điểm ông được tôn xưng hoàng đế năm 306.

Hoàng đế La Mã Galerius, trước khi chết, ban chiếu chỉ Galerius ngưng mọi hoạt động bách hại. Hoàng đế Constantinus I gặp thị kiến năm 312 và một năm sau đó ban hành chiếu chỉ Milano hợp pháp hóa Kitô giáo. Dù vậy, các cuộc bách hại được tái lập dưới triều Julianus Kẻ bội giáo (361-363), người muốn phục hồi cựu giáo trên lãnh thổ đế quốc. Tuy nhiên, vào năm 380 dưới triều hoàng đế Theodosius I, Kitô giáo được công nhận làm quốc giáo với chiếu chỉ Thessalonica. Trước đó, điều tương tự đã xảy ra tại các xứ láng giềng ArmeniaGruzia, cũng như tại Ethiopia. Nhưng tại Đế quốc Ba Tư vốn luôn đối nghịch với Đế quốc La Mã, Kitô hữu phải chịu nhiều áp bức từ Nhà Sassanid muốn củng cố lại địa vị của Hỏa giáo.

Tại Đế quốc Ba Tư, vào năm 410 giám mục thành Seleucia-Ctesiphon miền Assyria đã thay thế Thượng phụ thành Antiochia để giữ thẩm quyền cao nhất trong Giáo hội Phương Đông (Cảnh giáo). Trong thời kỳ ly giáo Nestorian, giáo hội này cắt đứt quan hệ với phương Tây. Trong suốt một thiên niên kỷ đã trở thành giáo hội có nhiều ảnh hưởng tại châu Á với các giáo phận được thành lập tại những nơi xa xôi như Trung Á, Ấn Độ, JavaTrung Hoa.


Bất đồng tôn giáo[sửa]

Trải qua hai thiên niên kỷ, các bất đồng về thần học và giáo hội học đã hình thành các hệ phái Kitô giáo khác nhau. Cảnh giáo và Chính thống giáo Cổ Đông phương tách khỏi Đại Giáo hội sau Công đồng Ephesus và Công đồng Chalcedon . Công giáo Tây phương và Chính thống giáo Đông phương cắt đứt hiệp thông với nhau trong cuộc Ly giáo Đông–Tây năm 1054. Kháng Cách (thường gọi là Tin Lành), không phải là một hệ phái đơn nhất nhưng là thuật từ nhóm hợp, phát sinh từ cuộc Cải cách Kháng nghị thế kỷ 16.

Theo Kinh thánh, Thiên Chúa là đấng đã sáng tạo ra vũ trụ, muôn loài trong 6 ngày và ngày thứ 7 Ngài nghỉ ngơi. Ông Adam và bà Eva không nghe lời Thiên Chúa đã ăn trái của "cây biết điều thiện điều ác" (trái cấm) nên bị Thiên Chúa đuổi khỏi Vườn địa đàng. Hai người này truyền tội lỗi (gọi là tội tổ tông, nguyên tội) cho con cháu là loài người. Bởi loài người mang tội, Thiên Chúa đã giáng sinh làm người và chịu khổ hình để loài người được hòa giải với Thiên Chúa.

Chúa Ki-tô vác thập tự giá, El Greco, 1580

Vậy tâm điểm việc cứu rỗi của Kitô giáo là Giêsu, do đó trọng tâm của cuộc sống Kitô hữu là niềm xác tín rằng Giêsu là Con Thiên Chúa giáng trần, là Đấng Mê-si-a. Danh hiệu "Messiah" có nguồn gốc từ tiếng Hebrew מָשִׁיחַ (māšiáħ), nghĩa là "đấng được xức dầu", chuyển ngữ sang tiếng Hy Lạp là Χριστός Khristos. Kitô hữu tin rằng, là Đấng Messiah, Giêsu được Thiên Chúa xức dầu để tể trị và cứu rỗi nhân loại, Giêsu đến để làm ứng nghiệm lời tiên tri về Đấng Messiah trong Cựu Ước. Trọng tâm của đức tin Kitô giáo là qua sự chết và phục sinh của Giêsu, con người tội lỗi được phục hòa với Thiên Chúa, nhờ đó mà nhận lãnh sự cứu rỗi và lời hứa được hưởng sự sống đời đời.

Trong khi những tranh luận thần học về bản thể của Giêsu vẫn đang tiếp diễn, thì phần lớn Kitô hữu tin rằng Giêsu là Thiên Chúa nhập thể, Giêsu "là Thiên Chúa và là con người" trong ý nghĩa trọn vẹn của cả hai bản tính. Vì Giêsu là người nên phải trải qua những đau khổ và bị cám dỗ như con người bình thường, nhưng không hề phạm tội. Vì là Thiên Chúa, Giêsu đánh bại quyền lực sự chết và sống lại từ kẻ chết. Theo Kinh Thánh, Thiên Chúa đã cho Giêsu sống lại từ cõi chết, đặt Giêsu ngồi bên hữu của Chúa Cha và Ngài sẽ trở lại để làm ứng nghiệm lời tiên tri về Đấng Messiah như sự phục sinh, sự phán xét sau cùng và sự thiết lập Vương quốc của Thiên Chúa.

Martin Luther năm 1529, tranh của Lucas Cranach

Sự khẳng định thần tính của Giêsu luôn là vấn đề trọng tâm đối với Kitô hữu thời sơ khai. Nhiều nhà trước tác, bao gồm JustinusTertullianus chứng thực niềm tin Giêsu là Thiên Chúa, trong khi một số các nhóm Kitô giáo khác từ chối chia sẻ niềm xác tín này. Sự việc lên đến đỉnh điểm khi Arius thuyết phục được nhiều người rằng Giêsu chỉ là một tạo vật, dù là tạo vật đầu tiên và cao trọng nhất. Cuộc tranh luận được giải quyết tại Công đồng Nicaea, được hoàng đế Constantinus I triệu tập, nơi học thuyết của Athanasius, một học giả theo thuyết Ba Ngôi, được công nhận là giáo lý chính thức của Hội thánh (xem tín điều Nicaea, tín điều Athanasius). Dù Constantinus I ra lệnh đốt sách của Arius và trục xuất ông, học thuyết của ông vẫn tiếp tục phát triển trong đế quốc suốt vài thập niên và trong vòng các bộ tộc người Goth trong gần hai thế kỷ sau đó.

Các công đồng vẫn tiếp tục được triệu tập để giải quyết các vấn đề thần học. Trong khi các công đồng bàn luận nhằm hợp nhất Kitô giáo thì các hoàng đế ủng hộ các công đồng nhằm bảo vệ sự ổn định chính trị. Một số thuật ngữ thần học được sử dụng tại các công đồng đã bị hiểu nhầm bởi các giáo hội mà ngôn ngữ chính là tiếng Syriac, tiếng Copt hay tiếng Armenia, làm tăng thêm khác biệt và dẫn đến các cuộc ly giáo giúp hình thành các giáo hội quốc gia mà sau này được gọi chung là Chính thống giáo Cựu Đông phương.

Những bất đồng về thần học đều được giải quyết tại các công đồng đại kết, và Kitô giáo đã duy trì được sự đồng thuận về các giáo lý nền tảng trong thiên niên kỷ đầu tiên. Tuy nhiên, trong thiên niên kỷ sau, các bất đồng về thần học và kỷ luật ngày càng trở nên trầm trọng. Cuộc Đại Ly giáo năm 1054 chia cắt Giáo hội thành hai nửa Tây phương và Đông phương. Trong khi giáo hội Tây phương với tên gọi Công giáo Rôma dần dần củng cố quyền lực tập trung vào Rôma thì giáo hội Đông phương với danh xưng "Chính thống" cam kết bảo tồn các truyền thống và đề kháng với mọi thay đổi. Cho đến nay Chính thống giáo Đông phương vẫn duy trì lập trường không đặt giáo hội dưới quyền cai trị của một giám mục duy nhất. Giáo hội Đông phương công nhận Thượng phụ thành Constantinopolis là "người đứng đầu nhưng bình đẳng" với các giám mục khác đang cai quản các giáo hội tự trị trong gia đình Chính thống giáo.

Tại Âu châu, chịu ảnh hưởng từ cuộc Cải cách Kháng nghị (Protestant Reformation) vào thế kỷ 16 nhiều giáo hội đã từ chối thần phục Tòa Thánh vì họ cho rằng có sự lạm dụng trong cơ cấu quyền lực được tập trung vào ngai Giáo hoàng cũng như bên trong cấu trúc quyền lực này đã nảy sinh nhiều sai lạc về thần học và sống đạo.Các vấn đề mấu chốt trong cuộc tranh luận sau này được tóm tắt trong năm mệnh đề sola (xem Năm Tín lý Duy nhất):

  • Sola scriptura: Duy Thánh Kinh - thẩm quyền của giáo hội chỉ dựa trên Kinh Thánh được giải thích cách đúng đắn và chuẩn xác chứ không được tách rời khỏi Kinh Thánh
  • Sola fide: Duy đức tin – con người được cứu rỗi chỉ bởi tin Đấng Christ (Chúa Kitô) chứ không phải bởi công đức hay là nhờ giáo hội và các thánh lễ
  • Sola gratia: Duy ân điển – Sự cứu rỗi được ban cho từ Thiên Chúa, bởi ân sủng của Ngài, con người không thể làm gì để được cứu
  • Solus Christus: Duy Chúa Kitô - Giêsu là đấng trung bảo duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người chứ không phải là giáo hội hay các chức sắc
  • Soli Deo gloria: Vinh hiển chỉ dành cho Thiên Chúa - mọi vinh hiển vì sự cứu rỗi nhân loại chỉ dành cho một mình Thiên Chúa chứ không phải giáo hội hay các chức sắc.

Từ cuộc cải cách khởi phát một cuộc tranh chấp dữ dội nhằm thu phục người dân Âu châu. Các cuộc tranh luận giữa người Công giáo và người Kháng Cách dẫn đến những cơn bách hại cũng như các cuộc chiến, kể cả các cuộc nội chiến.

Đức tin Công giáo và Kháng Cách (Tin Lành) đặt chân đến châu Mỹ (và sau đó là châu Úc) bởi các di dân đến từ châu Âu.

Không theo mô hình trung ương tập quyền như người Công giáo, cũng không tổ chức bộ máy giáo hội trên quy mô quốc gia, các tín hữu Kháng Cách thuộc về hàng chục, và sau này hàng ngàn hệ phái độc lập với nhau. Đức tin Công giáo và Kháng Cách cũng đến châu Phi Hạ SaharaViễn Đông cùng lúc với người Âu châu đi mở rộng thuộc địa, đặc biệt là từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 19. Vào cuối thế kỷ 18, Chính thống giáo du nhập vào vùng Alaska thuộc Bắc Mỹ qua các di dân đến từ Nga. Và về sau, vào thế kỷ 20, số lượng di dân Chính thống giáo từ Đông Âu sang các nước phương Tây còn lớn hơn nhiều.

Bắt đầu từ thế kỷ 19, nhiều quốc gia chịu ảnh hưởng Kitô giáo, đặc biệt tại Tây Âu, ngày càng trở nên thế tục.

Kitô giáo ngày nay[sửa]

Một số Kitô hữu nổi tiếng

Kitô giáo là tôn giáo có đông tín hữu nhất thế giới, với những con số ước tính từ 1,5 tỉ đến 2,1 tỉ người xưng nhận niềm tin Kitô giáo trong thập niên 1990. Theo Pew Research Center, vào năm 2010, Kitô giáo có khoảng 2,2 tỉ tín hữu (chiếm 32% tổng dân số thế giới), theo sau là Hồi giáo với 1,6 tỉ (23%); Ấn Độ giáo có 1 tỉ (15%); Phật giáo có gần 500 triệu (7%); có hơn 400 triệu người (6%) theo các tín ngưỡng dân gian hay bản địa; trong khi những người không tôn giáo có khoảng 1,1 tỉ (16%).

Tuy Kitô giáo là tôn giáo lớn nhất thế giới và đang duy trì nhiều nguồn lực cho việc truyền giáo, mức độ tăng trưởng của Kitô giáo chỉ xấp xỉ mức chung của thế giới. Theo dự đoán, vào nửa sau thế kỷ 21, số lượng dân số Hồi giáo sẽ vượt qua Kitô giáo để trở thành tôn giáo lớn nhất thế giới.

Giáo phái[sửa]

Kitô giáo chia ra nhiều nhánh, bao gồm hơn 1,1 tỉ người Công giáo, khoảng 800 triệu người theo các hệ phái Kháng Cách (trong đó có 85 triệu tín hữu Anh giáo), 300 triệu người Chính thống giáo, và những giáo hội "ngoại vi" (Nhân chứng Jehovah, Giáo hội Cơ Đốc Phục lâm An thất nhật, Giáo hội Mormon...) có hơn 40 triệu tín hữu. Các giáo phái này tự nhận mình thuộc Kitô giáo nhưng họ không được công nhận bởi cộng đồng Kitô giáo vì cớ các học thuyết không chính thống của họ.


Kitô giáo đóng một vai trò quan trọng trong nền văn hóa và văn minh phương Tây như phương Đông

Tây phương[sửa]

Đông phương[sửa]