Kinh Thi
Giao diện
Danh sách các bài thơ trong Kinh Thi ở đây lấy từ bản Kinh Thi do Chu Hy làm Truyện chú thích và viết tựa vào năm 1177. Bộ Kinh Thi này gồm 8 quyển, quyển 1 - 3 là Quốc phong, quyển 4 - 5 là Nhã và quyển 6 - 8 là Tụng.
Tổng cộng có 311 bài thơ với 1142 chương và 7076 câu thơ được ghi lại trong bản Kinh Thi này[1]
Quốc phong 國風 | ||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Quyển | Phần | Thứ tự | Bài | Số chương | Số câu | Tóm tắt nội dung | Tóm tắt chú giải của Chu Hy | Ghi chú |
1 | Chu Nam 周南 | 1 | Quan thư (tiếng kêu chim thư cưu) 關雎 | 3 | 20 | Người con trai nghe tiếng chim thư cưu, chim trống chim mái ứng họa nhau, nhân đó bày tỏ yêu đơn phương với một người con gái, mong cưới nàng làm vợ | Vua Văn Vương nhà Chu cưới nàng Thái Tự. Lúc nàng mới đến, thấy nàng có đức hạnh u tịch, nhàn nhã và đoan chính, người ta làm bài này, ý nói nàng và vua cùng hòa vui mà cung kính lẫn nhau, cũng như tình chí thiết đậm đà mà lúc nào cũng giữ gìn cách biệt của đôi chim thư cưu vậy. | |
2 | Cát đàm (cây sắn mọc dài) 葛覃 | 3 | 18 | Tâm sự người vợ dệt vải bằng dây sắn vào ngày thịnh hạ, nhân đó nhờ bà vú trong nhà giặt quần áo cho mình về thăm cha mẹ | Đức hạnh của hậu phi Thái Tự, đã sang mà còn siêng năng, đã giàu mà còn cần kiệm, đã lớn mà lòng kính mến bà sư phó không giảm, đã lấy chồng mà đạo hiếu với cha mẹ không suy kém, đều là đức hạnh đôn hậu của nàng mà người đời không dễ gì có được | |||
3 | Quyển nhĩ (rau quyển) 卷耳 | 4 | 16 | Người vợ nhớ chồng, đi hái rau chưa đầy giỏ bỗng nhớ đến người, buồn bã không hái nữa, bỏ quên giỏ rau bên đường. Lại muốn lên núi cao ngóng bóng chồng, nhưng ngựa đau không lên được, đành uống rượu trong lọ vàng để tiêu đi nỗi nhớ | Hậu phi nhớ tưởng đến chồng, vì Văn Vương đi khỏi, mới phô trần tình ý làm bài thơ này, khiến chúng ta nhận thấy nết trinh tịnh chuyên nhất rất mực của nàng, há chẳng phải là làm vào lúc Văn Vương đi chầu hay đi đánh giặc hoặc lúc bị giam ở Dữu lý hay sao? Nhưng không thể khảo cứu rõ ra được | |||
4 | Cưu mộc (bóng cây sà xuống) 樛木 | 3 | 12 | Đức độ của người biết cưu mang, đùm bọc người khác, vì như bóng cây cong sà xuống mặt đất, che chở cho sắn dây bìm bịp quấn quanh | Hậu phi năng thi ân cho các người thiếp dưới mình mà không có lòng đố kỵ ghen tương, cho nên các người thiếp mến đức hạnh của bà Hậu phi mà nguyền chúc bà được sống yên với nhiều phúc lộc | |||
5 | Chung tư (con giọt sành) 螽斯 | 3 | 12 | Khát vọng đông vui con cháu, như loài giọt sành (con giọt sành là loài cào cào dài màu xanh, đẻ trứng một lần nở ra 99 con) | Bà Hậu phi không đố kỵ mà con cháu được đông nhiều. Cho nên các người thiếp lấy bầy giọt sành tụ tập hòa hợp để so sánh với con cháu đông đảo của bà. Hễ có đức hạnh không ghen tương ấy thì phải có cái phúc đông con cháu này | |||
6 | Đào yêu (cây đào tơ) 桃夭 | 3 | 12 | Theo sách Chu lễ, tiết tháng trọng xuân nam nữ hội hợp mà lấy nhau thành vợ thành chồng, thì hễ cây đào trổ hoa là mùa hôn nhân vậy. Ý nói việc lấy chồng hợp thì của người con gái | ||||
7 | Thố tư (lưới bắt thỏ) 兔罝 | 3 | 12 | Hình ảnh người đàn ông bắt thỏ khỏe mạnh, nhanh nhẹn | Việc giáo hóa được thi hành, thì phong tục trở nên đẹp đẽ, bực hiền tài đông đảo. Tuy là người quê mùa nơi thôn dã, nhưng tài cán có thể dùng được. Vì thế nhà thơ nhân việc ấy khởi hứng mà khen tặng. | |||
8 | Phù dĩ (cây xa tiền) 芣苢 | 3 | 12 | Niềm vui hái trái phù dĩ của người phụ nữ, là một bài hát khi lao động | Hễ đức hóa thi hành thì phong tục trở nên đẹp đẽ, gia đạo bình yên, phụ nữ được vô sự, cùng nhau đi hái trái phù dĩ, trần thuật việc đi hái để cùng vui với nhau. | |||
9 | Hán Quảng (sông Hán Thủy rộng) 漢廣 | 3 | 24 | Người con trai yêu đơn phương cô gái bên sông Hán nhưng không dám thổ lộ, ví như sông Hán rộng quá không qua nổi, chỉ biết thầm thương trộm nhớ | Đức hóa của Văn Vương từ gần mà ra xa, bắt đầu từ khoảng sông Trường Giang, sông Hán để biến cải phong tục dâm loạn của vùng ấy. Cho nên những người con gái đi dạo chơi, người ta trông thấy, nhưng biết là đoan trang tịnh nhất, chẳng phải có thể cầu mong được như thuở trước nữa | |||
10 | Nhữ phần (bờ sông Nhữ) 汝墳 | 3 | 12 | Sự mong nhớ người yêu của người con gái bên sông Nhữ, thương người yêu đang phải chịu khổ sở, lao dịch dưới sự cai trị bạo tàn khốc liệt của "vương thất" | Lúc ấy Chu Văn Vương đã chiếm gần hết thiên hạ, đốc suất các nước ven sông Nhữ làm việc cho Trụ Vương. Người chồng làm việc khổ nhọc mà vua Trụ cứ bạo tàn mãi, người vợ tuy thương xót chồng nhưng khuyên chồng tôn thờ quân thượng, không có tình riêng lả lơi. Thì ơn trạch sâu xa của Văn Vương, phong hóa đẹp đẽ ấy đã có thể nhận thấy được | |||
11 | Lân chi chỉ (chân con lân) 麟之趾 | 3 | 9 | Lấy hình tượng con thú quý là lân, chân nó không đạp lên cỏ tươi, không giẫm lên côn trùng còn sống mà khen ngợi sự đức độ của cha mẹ, tổ tiên truyền thụ xuống con cháu, đều có đạo đức tốt đẹp | Chu Văn Vương và Hậu phi lấy đức hạnh tu thân, mà con cháu tông tộc đều hóa ra hiền lành. Cho nên nhà thơ mới lấy chân con lân mà khởi hứng để nói về con của Văn Vương và Hậu phi | |||
Thiệu Nam 召南 | 1 | Thước sào (tổ chim thước) 鵲巢 | 3 | 12 | Người con gái vu quy về nhà chồng, ví như chim thước xây tổ đẹp mà chim cưu đến ở | Chư hầu ở nước phương nam chịu sự giáo hóa của Văn Vương đều chính tâm tu thân để tề gia. Còn con gái của chư hầu cũng chịu sự giáo hóa của Hậu phi, đều có đức hạnh chuyên tịnh thuần nhất. Cho nên khi nghe việc gả cho chư hầu thì có trăm cỗ xe đến rước dâu, người nhà khen tặng rằng chim thước có ổ rước chim cưu đến ở. | ||
2 | Thái phiền (hái rau phiền) 采蘩 | 3 | 12 | Người nữ tì hái rau phiền để làm lễ tế tằm cho nhà công hầu, làm việc quần quật suốt ngày, cho đến tối lễ xong mới được nghỉ ngơi | Nước phương nam chịu sự giáo hóa của Văn Vvương, bà phu nhân, vợ của chư hầu hết sức thành kính lo việc cúng tế. Người nhà của bà mới kể lại việc ấy mà khen tặng. Hoặc nói rằng rau phiền để nuôi tằm, vì rằng ngày xưa bà hậu phu nhân có lễ thân tằm. | |||
3 | Thảo trùng (con châu chấu) 草蟲 | 3 | 21 | Mùa hạ đến, châu chấu cào cào kêu vang rộn rã, người chồng không có nhà, người vợ bồn chồn buồn rầu nhớ chồng, tâm sự thành thơ | Nước phía nam chịu sự giáo hóa của Văn Vương, quan đại phu của chư hầu đi làm việc ở ngoài, vợ ở một mình, cảm đến sự biến thay của vạn vật tùy theo mùa theo tiết mà nhớ tưởng đến chồng như thế | |||
4 | Thái tần (hái rau tần) 采蘋 | 3 | 12 | Người nữ tì hái rau tần, chuẩn bị lễ vật cúng tế cho nhà chủ | Nước ở phía nam chịu sự giáo hoá của Văn Vương, vợ của quan đại phu năng đi việc cúng tế, người nhà của nàng mới kể lại việc ấy mà khen tặng. | |||
5 | Cam đường (cây lê) 甘棠 | 3 | 9 | Triệu công Thích cai trị đất Triệu (Thiệu), ngồi xử kiện dưới gốc cây lê. Ông đi khỏi, dân nhớ ơn, thương mến cây lê không cho ai đốn ngã, làm thơ về cây lê. | Ông Thiệu Bá đi khắp nước phương nam để truyền bá việc đức chính của Văn Vương, có khi ở dưới cây cam đường. Về sau, người ta nhớ đến công đức của Thiệu Bá, thương mến cây cam đường ấy mà không nỡ làm cho nó bị thương tổn. | |||
6 | Hành lộ (đi đường) 行露 | 3 | 15 | Người con gái cự tuyệt người con trai thô lỗ muốn cưới cô làm vợ, lấy cơ đường khuya sương giá không theo, chê bai người kia thiếu lễ độ | Người ở nước phương nam, tuân theo lời dạy dỗ của Thiệu Bá mà phục theo sự giáo hoá của Văn Vương, đã bỏ được thói tục dâm loạn của ngày trước, cho nên người con gái năng lấy lễ giữ mình mà không bị ô nhục vì kẻ ngang tàng vô lễ nữa, mới kể ý chí mình, làm bài thơ này để cự tuyệt với kẻ ấy | |||
7 | Cao dương (con dê) 羔羊 | 3 | 12 | Ca ngợi vị quan chính trực, thanh liêm, mặc áo da dê giản dị mà dáng vẻ thung dung. | Nước phía nam chịu sự giáo hoá theo nền chính trị của Văn Vương, những quan lại tại chức đều cần kiệm chính trực. Cho nên nhà thơ mới khen tặng quan lại, y phục được bình thường không xa hoa (vì cần kiệm), dáng điệu thung dung tự đắc như thế (vì chính trực) | |||
8 | Ẩn kỳ lôi (tiếng sấm) 殷其靁 | 3 | 18 | Tiếng sấm vang ầm ầm ở phía nam núi nam, người vợ lo người chồng phải vội đi phu, đi lính ở ngoài gặp bất trắc, nhân đó lo lắng mà mong chồng sớm quay về | Nước phương nam chịu sự giáo hoá của Văn Vương, người vợ vì chồng đi làm ở ngoài, tưởng nhớ đến chồng mà làm bài thơ này, khen ngợi đức hạnh của chồng, rồi nàng lại mong công việc sớm thành để chàng mau được trở về | |||
9 | Phiếu hữu mai (quả mai rụng) 摽有梅 | 3 | 12 | Lấy hình ảnh quả mai rơi rụng dần dần khi hết mùa để nói lên nỗi lo lắng của người con gái lỡ thì, chưa lấy được chồng | Nước phương nam chịu sự giáo hoá của Văn Vương, con gái biết lấy chữ trinh tiết, trung tín để thờ giữ mình, lo cho mình gả chồng không kịp thời mà phải chịu nhục vì kẻ ngang tàng vô lễ | |||
10 | Tiểu tinh (sao nhỏ) 小星 | 2 | 10 | Than trách số mệnh vì bất đắc chí, ở thân phận nghèo hèn thấp mọn, phải khó khăn phục dịch người quyền quý lúc nửa đêm về sáng (vẫn còn mọc mấy ngôi sao nhỏ) | Các bà phu nhân của chư hầu chịu giáo hoá của bà Hậu phi Thái tự, không ghen tuông nữa, thi ân huệ cho kẻ hầu thiếp. Các thiếp được hầu hạ vua, nhưng không dám ở suốt đêm, lấy việc được hầu hạ vua là ân huệ của bà phu nhân mà không than oán về công cán đi lại đêm hôm. Hễ trên chuộng nhàn, thì dưới chuộng nghĩa vậy | |||
11 | Giang hữu tự (sông Trường Giang chảy tách rồi lại hợp vào) 江有汜 | 3 | 15 | Người vợ sau khi lấy chồng, không dắt theo cô gái đưa dâu làm thiếp cho chồng, cô gái dẵn dỗi lên tiếng trách móc, nói rằng sau này người vợ sẽ phải hối hận. | Lúc ấy bên sông có cô gái đưa dâu không được bà phu nhân dẫn theo làm thiếp (tục xưa, hễ gả cho chư hầu, nàng dâu dẫn em/cháu gái đi theo đưa dâu và làm hầu thiếp cho chồng, được cho là vinh hạnh). Sau, phu nhân ấy chịu giáo hoá của Hậu phi, mới rước sang làm thiếp cho chồng, giống như dòng sông tách ra cuối cùng phải nhập vào | |||
12 | Dã hữu tử khuân (ngoài đồng có con nai chết) 野有死麕 | 3 | 11 | Người con trai muốn lấy người con gái đẹp làm vợ nhưng vô lễ, đem lá bạch mao gói thịt con nai chết ngoài đồng tặng cô gái, bị cô cự tuyệt và chế giễu. Cũng có người cho bài này nói về sự hẹn hò, thề thốt yêu đương[2] | Nước phía nam chịu sự giáo hoá của Văn Vương, con gái đều giữ mình trinh tiết, không bị ô nhục vì những người trai ngang tàng vô lễ | |||
13 | Hà bỉ nùng hĩ (sao dồi dào đông vui vậy) 何彼襛矣 | 3 | 12 | Ca ngợi lễ cưới của con gái Chu Văn Vương là Vương Cơ với con trai vua nước Tề. Vương Cơ không cậy mình cao quý mà kêu căng, hết sức khiêm nhường, cung kính. | Vương Cơ, con gái của vua nhà Chu, hạ mình để gả cho chư hầu, y phục và xe ngựa nhiều đông như thế ấy mà không cậy mình là tôn quý để khi dễ nhà chồng. Cho nên, người thấy chiếc xe đưa dâu của nàng, biết ngay là nàng đã cung kính và hoà thuận để giữ trọn đạo làm vợ, mới làm bài thơ này để khen tặng. | |||
14 | Trâu ngu (con trâu ngu) 騶虞 | 2 | 6 | Ca ngợi lòng tốt, thương xót sự sống đến cả sinh mệnh loài vật, mùa xuân đi săn, bắn năm heo con đực chỉ một phát tên, không có ý giết hết. Thực nhân đức như con trâu ngu không hề ăn loài vật sống | Chư hầu phương nam chịu giáo hoá của Văn Vương, lo tu thân tề gia để trị nước. Ân huệ còn thấm nhuần đến loài vật. Cho nên, trong cuộc săn bắn mùa xuân, cỏ cây tươi tốt, cầm thú dồi dào, vua chư hầu đã hành động nhân đức đến như thế (trong năm con heo, chỉ bắn một phát, hạ vài con chứ không giết hết) | |||
2 | Bội phong 邶風 | 1 | Bách chu (thuyền gỗ bách) 柏舟 | 5 | 30 | Người đàn bà bị chồng bỏ, bị anh em chê cười, song vẫn kiên quyết giữ ý kiến của mình, dù trong lòng rất buồn. | Vợ không được lòng chồng, cho nên lấy chiếc thuyền bằng gỗ bách trôi nổi giữa sóng nước mà ví cảnh tình. Nay xét giọng văn mềm mại nhún nhường, lại ở đầu phần thơ biến phong, mà cũng giống như thiên sau đây, thì há lạ cũng là thơ của nàng Trang Khương đó chăng ? | |
2 | Lục y (áo xanh) 綠衣 | 4 | 16 | Người đàn bà bị chồng ruồng rẫy, trong khi hầu thiếp được yêu mến, phẫn uất thổ lộ tâm sự | Vệ Trang công bị mê hoặc vì người thiếp yêu dấu. Phu nhân là Trang Khương hiền thục mà bị mất địa vị mới làm bài thơ này | |||
3 | Yến yến (chim én) 燕燕 | 4 | 24 | Người vợ chính thương nhớ nàng hầu thiếp, tiễn nàng về quê, thổ lộ tâm sự | Bà Trang Khương, vợ đích của Vệ Trang Công, không có con, nhận con của người thiếp Đái Quy, tên là Hoàn làm con. Khi Trang Công mất, Hoàn lên nối ngôi, bị Châu Hu, con của người sủng thiếp giết. Cho nên Đái Quy bỏ về nước Trần luôn, không trở lại nữa. Bà Trang Khương đưa tiễn nàng Đái Quy và làm bài thơ này. | |||
4 | Nhật nguyệt (mặt trời Mặt Trăng) 日月 | 4 | 24 | Người vợ bị chồng ruồng rẫy, phụ bạc, đau đớn xót xa gọi nhật nguyệt để tâm sự | Bà Trang Khương không được Vệ Trang Công báo đáp ân tình, mới gọi mặt trời Mặt Trăng để bày tỏ nỗi lòng đau đớn. Tuy bị bỏ rơi như thế, mà Trang Khương vẫn có ý chờ trông. Bài thơ này vì thế mà đôn hậu | |||
5 | Chung phong (suốt ngày gió) 終風 | 4 | 16 | Người vợ sống với người chồng cuồng si ngu dại, hung bạo như gió bão mịt mù suốt ngày | Trang Công là người cuồng si phóng đãng hung bạo, nhưng vợ là Trang Khương không nhẫn tâm tỏ lời bài xích, cho nên chỉ lấy việc gió bão suốt ngày mà so sánh với tính cuồng bạo | |||
6 | Kích cổ (đánh trống) 擊鼓 | 5 | 20 | Nỗi lòng người lính phải xa nhà, xa vợ con đi chinh chiến | Người nước Vệ đi lính đánh giặc ở phương Nam, phải lo về nỗi bị mũi tên ngọn giáo mà chết mất, nguy khổ vô cùng, nhớ người vợ ở nhà không biết có được gặp lại không | |||
7 | Khải phong (gió nam) 凱風 | 4 | 16 | Lời người con tự trách mình kém tài, không an ủi được mẹ để mẹ phải đi tái giá | Phong tục dâm loạn ở nước Vệ lan rộng, người mẹ tuy đã có bảy đứa con còn không thể yên nơi nhà chồng, còn muốn đi lấy chồng nữa, cho nên bảy đứa con ấy làm bài thơ này, tự trách mình không phụng sự được mẹ, không muốn điều xấu xa của mẹ bộc lộ ra. Thật là con có hiếu vậy | |||
8 | Hùng trĩ (chim trĩ) 雄雉 | 4 | 16 | Người vợ lo nghĩ cho chồng đang phục dịch ở xa xôi cách trở, nhớ thương chồng và mong chàng được lương thiện, bình an | Người vợ vì chồng đi làm ở ngoài xa, cách trở xa xôi, mới nói là chim trĩ bay đi, dáng từ từ tự đắc nhân thế mà nhớ nghĩ về chàng. Lại sợ chồng đi phục dịch ở xa mà phạm điều tội lỗi. Nàng mong cho chồng sẽ ăn ở lương thiện mà được hoàn toàn vậy | |||
9 | Bào hữu khổ diệp (trái bầu có lá đắng) 匏有苦葉 | 4 | 16 | Lời than của người bị gò bó tình yêu | Đây là bài thơ châm biếm kẻ dâm loạn, không tính đến lễ nghĩa, đã chẳng vừa đôi phải lứa mà cố ý phạm lễ để lấy nhau và răn dạy trai gái ắt phải chờ lứa đôi xứng đáng mới chịu thành vợ chồng, để châm biếm những người chẳng chịu làm như thế | |||
10 | Cốc phong (gió đông) 谷風 | 6 | 48 | Người vợ vất vả gây dựng cơ đồ nhà chồng, nhưng khi anh chồng có vợ mới thì coi như cái gai trước mắt rồi ruồng bỏ đuổi đi. Người vợ bèn kể lại cảnh ngộ bất hạnh, tỏ lòng quyến luyến nhà chồng, nhắc đến mối tình xưa, dứt đi không đành nhưng cũng thể hiện sự oán giận, đau đớn | Người vợ bị chồng bỏ, nên mới làm bài thơ này để kể lại tâm tình sầu oán. Nhưng dù người chồng vui thú với vợ mới, mà chẳng thương xót đến người vợ cũ thì đạo đàn bà chỉ theo có một chồng mà thôi. Nên tuy bị bỏ mà vẫn có lòng trông mong ở chồng, thật là đôn hậu lắm. | |||
11 | Thức vi (suy vi) 式微 | 2 | 8 | Lời bề tôi trách ông vua chịu hèn hạ, nương tựa nước ngoài | Thuyết xưa cho là Lê hầu bị mất nước, sang ở nhờ nước Vệ, có kẻ bầy tôi khuyên rằng "Suy vi quá rồi, sao không trở về vậy thay ! Tôi nếu không vì vua ở đây thì chẳng bị nhục thế này đâu". Bài thơ này không thể khảo cứu được, chỉ nói theo giải thuyết của bài tự | |||
12 | Mao khâu (cái gò) 旄丘 | 4 | 16 | Chính khách vong quốc trách nước ngoài hứa đến giúp mà không thấy đến tiếp cứu, phải đi lưu vong khổ sở | Theo thuyết xưa, bề tôi của vua nước Lê trọ ở nước Vệ đã lâu, lên trên gò thấy cây sắn đã lớn đã dài, nhân đấy trách móc nhẹ nhàng bầy tôi nước Vệ có việc gì mà đã không thấy tiếp cứu. Bài thơ này vốn trách vua Vệ, nhưng chỉ bài xích bầy tôi. Đang khi lưu lạc mà lời nói có thứ tự như thế thì cũng hiểu được người ấy là thế nào rồi | |||
13 | Giản hề (bỡn cợt) 簡兮 | 4 | 18 | Lời người hiền tài bất đắc chí chịu làm chức khiêm nhường, nhớ tiếc thịnh thế thuở xưa | Người hiền mà bất đắc chí, làm quan coi giữa âm nhạc thời loạn, có lòng khinh đời và phóng túng, cho nên lời nói dường như tự khen mà thật ra là tự nhạo, lại cảm hứng nhớ các vua đời thịnh trị ngày xưa | Vốn có 3 chương, mỗi chương 6 câu, Chu Hy sửa lại | ||
14 | Tuyền thủy (nước suối) 泉水 | 4 | 24 | Nhân hình tượng sông Tuyền cuốn nước chảy theo sông Kỳ, cô gái lấy chồng xa nhà dù biết mình phải theo nhà chồng, vẫn nhớ nhà, nhớ cha mẹ, muốn về thăm mà không dám, thốt lên tâm sự trong lòng | Cô gái nước Vệ gả cho chư hầu, khi cha mẹ mất, muốn trở về thăm nhưng cuối cùng không dám ra đi, dù rất nhớ quê hương. Thánh nhân chép vào kinh sách để nên rõ cho đời sau, khiến cho biết rằng người lấy chồng ở nước khác, khi cha mẹ mất, không có quyền trở về thăm. Người nào năng kiềm chế được mình, thì nhờ đấy mà biết cách ăn ở vậy | |||
15 | Bắc môn (cửa Bắc) 北門 | 3 | 21 | Lời than thở nghèo khổ, khổ sở của quan lại thời loạn | Người hiền tài nước Vệ ở vào thời loạn, phải thờ hôn quân, vì bất đắc chí cho nên đi ra cửa bắc than nghèo kể khổ, rồi đổ về cho mệnh trời. Tôi trung nước Vệ nghèo khó, mà chẳng ai biết đến, đó là không có đạo yêu kẻ sĩ vậy. Nhưng không trách vua mà trách trời, quả là tôi trung | |||
16 | Bắc phong (gió bắc) 北風 | 3 | 18 | Lấy hình tượng gió bấc, chồn quạ hiện ra để chỉ cảnh li loạn sắp xảy ra, rủ người thân chạy trốn tị nạn, không thể từ từ khoan thai được nữa | Nỗi nguy loạn của quốc gia sắp đến nơi, muốn cùng những người thân lánh loạn về nơi khác | |||
17 | Tĩnh nữ (cô gái nhàn nhã) 靜女 | 3 | 12 | Hai người yêu nhau hẹn hò ở góc thành, người con gái đến chậm khiến chàng băn khoăn chờ đợi sốt ruột. Nàng đến, chàng khen sắc đẹp của nàng. Tình yêu nam nữ dạt dào, thắm thiết | ||||
18 | Tân đài (đài mới) 新臺 | 3 | 12 | Nỗi lòng người con gái gặp người chồng không như ý, xấu xí, hèn hạ | Thuyết xưa cho rằng Vệ Tuyên công đi cưới người con gái ở nước Tề là Tuyên Khương cho con trai tên Cấp. Tuyên Công nghe nàng ấy đẹp, muốn cưới lấy cho mình, bèn dựng lâu đài mới ở trên sông Hoàng Hà để đón. Người trong nước ghét việc ấy, cho nên mới làm bài thơ này để châm biếm | |||
19 | Nhị tử thừa chu (hai người đi thuyền) 二子乘舟 | 2 | 8 | Thương xót hai anh em giành nhau cái chết | Thuyết xưa cho là Vệ Tuyên Công lấy Tuyên Khương, sinh ra công tử Thọ và công tử Sóc. Sóc tố cáo công tử Cấp làm phản. Công sai Cấp đi sang Tề và khiến quân giặc đợi sẵn Cấp ở cửa ải để giết. Thọ biết, mới báo cho Cấp. Cấp không chịu trốn. Thọ bèn đi trước, bị giặc giết. Cấp đến sau, giặc lại giết Cấp. Đau đớn làm sao, cha con anh em tàn sát nhau | |||
Dung phong 鄘風 | 1 | Bách chu (thuyền gỗ bách) 柏舟 | 2 | 14 | Nỗi lòng người con gái chung thủy với người chồng mình yêu, bất chấp cha mẹ ngăn cấm bắt ép | Thuyết xưa cho rằng thế tử nước Vệ là Cung Bá chết sớm, vợ là Cung Khương thủ tiết. Cha mẹ nàng muốn bắt nàng về để tái giá. Cho nên nàng Cung Khương mới làm bài thơ này để tự thệ nguyện. | ||
2 | Tường hữu từ (tường bám dây từ) 牆有茨 | 3 | 18 | Chế giễu sự dâm ô bại hoại phong hóa của tầng lớp trên | Thuyết xưa cho là Vệ Tuyên Công chết, Huệ Công (con kế vị còn nhỏ tuổi), người anh con của mẹ thứ, tên Ngoạn phạm thượng, thông dâm với Tuyên Khương (mẹ của Huệ Công). Thánh nhân sở dĩ ghi vào kinh sử là để khiến cho đời sau biết rằng tuy là lời nói trong khuê phòng cũng không thể che giấu mãi được. | |||
3 | Quân tử giai lão (cùng chồng đến già) 君子偕老 | 3 | 24 | Tả dung sắc người đẹp mà xấu xa, kém đức hạnh | Chê bai nàng Tuyên Khương đẹp người nhưng không có đức hạnh | |||
4 | Tang Trung 桑中 | 3 | 21 | Nam nữ hẹn hò yêu đương, thề thốt | Phong tục nước Vệ dâm loạn, những gia tộc quyền quý hay lấy vợ thiếp lẫn nhau. Lời thơ của Dung, Vệ đều là tiếng thời loạn. Những tiếng trong dâu dưới Bộc đều là tiếng mất nước. Chính trị rời rã, nhân dân lưu ly, thói dối gạt bề trên và thi hành tư dục thì không ngăn được. Hai chữ "tang gian" (tiếng dâm loạn trong đám dâu) tức là thiên này | |||
5 | Thuần chi bôn bôn (chim cút sóng đôi) 鶉之奔奔 | 2 | 8 | Chê cười kẻ loạn luân dâm ô | Người nước Vệ châm biếm Tuyên Khương với công tử Ngoạn, không phải là đôi lứa vợ chồng mà lại theo nhau. Người vô lương, không bằng loài chim cút, chim khách | |||
6 | Đính chi phương trung (sao Đính giữa trời) 定之方中 | 3 | 21 | Ngợi khen nhà vua chăm lo xây dựng quốc gia, thi hành chính sự | Nước Vệ bị rợ Địch tiêu diệt. Văn Công dời sang ở Sở Khâu, xây dựng cung thất. Người trong nước yêu mến Văn Công, mới làm bài thơ này để khen tặng. | |||
7 | Đế đống (mống cầu vồng) 蝃蝀 | 3 | 12 | Lời người con gái nguyện ước tình yêu | Đây là bài thơ châm biếm thói dâm bôn. Nói rằng mống ở phương đông mà người ta không dám chỉ trỏ, để ví với việc dâm bôi không thể nói ra được. Con người tuy không thể không tình dục, nhưng phải kiềm chế. Lấy đạo đức mà kiềm chế tình dục thì có thể thuận theo lẽ chính đáng | |||
8 | Tướng thử (xem chuột) 相鼠 | 3 | 12 | Châm biếm kẻ hỗn hào thiếu lễ nghi | ||||
9 | Can mao (cờ mao) 干旄 | 3 | 18 | Việc quan lại biết thăm viếng kẻ sĩ người hiền | Quan đại phu nước Vệ đi chiếc xe ngựa, có cắm cờ tinh mao để viếng người hiền, làm vào thời Vệ Văn Công. Nước Vệ vốn dâm loạn vô lễ, sau khi bị tàn phá, lòng người lo sợ, cho nên mới làm bài thơ này. Ấy là nói sống trong lo sợ mà chết trong an vui | |||
10 | Tái trì (đánh xe) 載馳 | 3 | 18 | Lời con gái vua Vệ nóng lòng muốn về thăm nước Vệ. Lúc ấy Vệ bị người Địch diệt, di dân vượt Hoàng Hà về phía đông, tụ tập ở ấp Tào, lập Đái Công nhưng rốt cuộc không đi được, vì vua tôi nước Hứa ngăn cản. Bà phẫn nộ làm thơ này, mắng nước Hứa và kiên quyết bôn ba cứu viện tổ quốc | Con gái bà Tuyên Khương làm vợ Mục Công nước Hứa, đau xót vì Vệ mất nước, muốn về thăm anh là Vệ Đái Công ở ấp Tào. Đang đi chưa đến thì quan nước Hứa chạy vội đến, can ngăn. Phu nhân biết là sai lễ, rốt cuộc không trở về. Tiên vương chế ra lễ, cha mẹ có mất cũng không được trở về thăm viếng, đó là nghĩa. Cái nghĩa nặng hơn việc nước mất | Vốn có 5 chương, chương 1 và 4 6 câu, chương 2 và 3 4 câu, chương 5 8 câu. Sau hợp chương 2 và 3 làm một. | ||
Vệ phong 衛風 | 1 | Kỳ cú (khúc quanh sông Kỳ) 淇奧 | 3 | 27 | Lời khen tặng nhà vua tiến ích việc tu thân, như hàng tre mềm mại mà chắc chắn ven khúc quanh sông Kỳ | Người nước Vệ khen tặng đức hạnh của Vệ Vũ công, lấy cây tre mới mọc xanh um để khởi hứng sự tiến ích về học vấn và tu thân. Theo sách Quốc ngữ, Vũ Công tuổi đã 95, ra lệnh cho quan lại phải thường xuyên can gián mình. Vũ Công có văn chương mà chịu nghe can gián, các vua khác của nước Vệ thực không theo kịp | ||
2 | Khảo bàn (làm nhà) 考槃 | 3 | 12 | Tình cảnh người hiền đi ở ẩn nhàn nhã, vui thú | ||||
3 | Thạc nhân (người đẹp) 碩人 | 4 | 28 | Tả nàng Trang Khương, vợ Vệ Trang Công, từ lai lịch dung nhan cho đến tùy tòng của bà | Nàng Trang Khương đẹp mà không con, người Vệ mới làm bài này khen tặng sự tôn quý gia tộc nàng, than thở sự mê hoặc của Vệ Trang Công. | |||
4 | Manh (gã kia) 氓 | 6 | 60 | Lời người con gái trách người yêu cũng là người chồng phụ bạc, li dị. Nàng đau khổ hối hận, giận dữ, thấy trong yêu đương nam nữ thật bất bình đẳng, trách mắng người chồng, quyết tâm cắt đứt tình cảm. Thái độ cứng cỏi | Người vợ này bị phụ bỏ, kể lại nỗi hối hận ăn năn. Nàng mưu tính hẹn hò với người con trai nhưng trách hắn không có mối mai để làm khó khăn. Lại ước hẹn lần nữa để hắn vững lòng, kế này cũng xảo quyệt lắm, để chế ngự gã ngơ ngáo kia. Nhưng đã hư thân rồi thì người ta khinh hèn ghét bỏ nên gã ấy, tuy mới đầu ham mê u ám, sau ắt tỉnh ngộ. Cho nên với tính dâm bôn, nàng không làm gì mà cũng bị khốn, bị chồng bỏ, anh em chê cười. Kẻ sĩ quân tử lập thân, một lần thất bại mà vạn sự đều tiêu tan, có thể không cẩn thận răn phòng sao ? Lại con gái chớ phải lòng con trai. Người đàn bà chỉ lấy trinh tín làm tiết tháo thôi. Mà con trai mê gái không phải không có hại đâu nhé! | |||
5 | Trúc can (cần câu) 竹竿 | 4 | 16 | Nỗi lòng người con gái lấy chồng ở xa nhớ nhà | Con gái nước Vệ gả cho chư hầu, muốn trở về thăm cha mẹ, mà không thể đi được, cho nên làm bài thơ này, nói muốn lấy cành tre để câu cá ở sông Kỳ, nhưng xa không thể đến nơi được | |||
6 | Hoàn lan (cây hoàn lan) 芄蘭 | 2 | 12 | Chế giễu chê bai đứa trẻ nhà quyền quý ăn mặc ra dáng người lớn mà tự kiêu | ||||
7 | Hà quảng (sông Hoàng Hà rộng) 河廣 | 2 | 8 | Con gái bà Tuyên Khương được gả làm phu nhân Tống Hoàn công, sinh ra Tống Tương công, rồi trở về ở nước Vệ. Tương Công lên ngôi, phu nhân nhớ con nhưng mẹ đã bỏ ra thì đã tuyệt với tông miếu, không thể lấy tình riêng mà trở về được, cho nên làm bài thơ này. Nước Vệ có thơ của phụ nữ, từ Trang Khương đến mẹ Tương Công là sáu người, đều dừng lại trước lễ nghĩa mà không dám vượt qua. Việc giáo hóa của tiên vương vẫn còn vậy! | ||||
8 | Bá hề (chàng ơi) 伯兮 | 4 | 16 | Nỗi nhớ người chồng xa cách đi chinh chiến của người vợ | Người vợ có chồng đi chinh chiến, nhan sắc không thiết chăm chút, nhớ chồng đến choáng váng. Việc binh đao hại dân chúng vào đường tử vong, làm mồ côi goá bụa cho nên bậc thánh vương thịnh thời thận trọng binh đao, bất đắc dĩ phải dùng. Còn thơ thời loạn chép nỗi đau khổ nhớ nhung của gia thất, vì tâm tình của con người không ngoài việc đó. | |||
9 | Hữu hồ (có con chồn) 有狐 | 3 | 12 | Nỗi lòng người quả phụ muốn tái giá | Nước loạn, dân mất, tan cả đôi lứa. Có người đàn bà goá thấy người đàn ông goá thì muốn lấy nhau, cho nên mới mượn lời nói có con chồn đi một mình mà thương cho người ấy ở goá, không có ai may quần cho mặc | |||
10 | Mộc qua (cây đậu mộc) 木瓜 | 3 | 12 | Lời trai gái tặng đáp, hẹn hò yêu đương | Nghi là lời trai gái tặng đáp nhau như ở bài Tĩnh nữ vậy. Nước Vệ ở bên sông lớn, đất ít và thấp lại phì nhiêu, nên huyết khí con người nông nổi, nhu nhược, lười biếng. Con người mà tính tình như thế, thì giọng nói tiếng hát cũng dâm loạn xa xỉ. Cho nên nghe tiếng nhạc ấy, người ta trở nên lười biếng mà dâm tà. | |||
Vương phong 王風 | 1 | Thử ly (lúa nếp) 黍離 | 3 | 30 | Xúc cảm về thời xưa cũ huy hoàng nay đã điêu tàn | Nhà Chu đã dời về phía đông, quan đại phu đi làm việc, bước đến đất Tông Chu (kinh đô nhà Chu thời Chu Vũ Vương), ngang qua tông miếu và cung thất xưa, nay đã là ruộng lúa nếp, thương xót nhà Chu nghiêng đổ mà bàng hoàng không nỡ bước đi. Cho nên phô trần những điều đã trông thấy thành thơ | ||
2 | Quân tử vu dịch (chàng đi tòng quân) 君子于役 | 2 | 16 | Nỗi nhớ mong người chồng tòng quân của vợ | Quan đại phu đi làm đã lâu ở ngoài, vợ ở nhà tưởng nhớ mà bày tỏ tâm tình, không biết khi nào chồng trở về | |||
3 | Quân tử dương dương (chàng đắc ý) 君子陽陽 | 2 | 8 | Cảnh tượng gia đình vui vẻ, thắm thiết khi người chồng đi xa trở về | Bài thơ này nghi cũng là do người vợ ở bài Quân tử vu dịch làm ra. Vì rằng chồng nàng trở về, không lấy việc đi làm là vất vả lao nhọc, mà yên phận nghèo hèn làm vui. Người nhà biết ý chàng mà khen tặng đậm đà, thì có thể nói là người hiền vậy. Cho nên, há chẳng phải ơn trạch của tiên vương đấy ư ? | |||
4 | Dương chi thủy (dòng nước lững lờ) 揚之水 | 3 | 18 | Nỗi lòng người lính thú đóng đồn ở xa nhớ vợ con | Vua Chu Bình Vương cho là nước Thân ở gần nước Sở, bị nhiều lần xâm phạm, mới khiến dân chúng ở Lạc Ấp đi đóng đồn trấn giữ cho. Những người đi lính thú ấy than oán nhớ nhà, làm bài thơ này. Thân Hầu cùng với rợ Khuyển Nhung giết Chu U Vương, lập Bình Vương. Theo luật, Thâu Hầu phải bị tru di. Thế mà Bình Vương quên cha và trái lễ, đắc tội với thiên hạ quá lắm. Cho nên dân Chu không phục mà than oán nhớ nhà. | |||
5 | Trung cốc hữu thôi (trong hang có cây thôi) 中谷有蓷 | 3 | 18 | Lời than thở của người vợ bị chồng lìa bỏ | Năm mất mùa đói kém, vợ chồng phụ bỏ nhau, người vợ thấy vật khô héo mà khởi hứng, tự thuật lại lời sầu than. Chính trị của nhà Chu hoang phế, dân chúng lìa tan, mà rồi sẽ không lấy gì làm quốc gia nữa, chỉ ở đây cũng có thể nhận thấy rồi | |||
6 | Thố viên (con thỏ thư nhàn) 兔爰 | 3 | 21 | Nỗi lòng của người quân tử trải thịnh rồi loạn, đau xót tiếc nuối | Nhà Chu suy hèn, chư hầu bội phản, người quân tử không vui sống, mới làm bài thơ này | |||
7 | Cát lũy (dây sắn) 葛藟 | 3 | 18 | Lời than thở của người dân trôi nổi tha hương trong thời loạn lạc | Đời lụn suy, dân ly tán, có kẻ bỏ làng quê gia tộc, mất chỗ nương náu, trôi nổi lênh đênh, mới làm bài thơ này để tự than thở | |||
8 | Thái cát (hái dây sắn) 采葛 | 3 | 9 | Nỗi nhớ tha thiết người yêu, "một ngày không thấy tưởng ba thu" | Đây là đứa dâm bôn nói thác như thế để ra đi, cho nên chỉ người yêu mà nói mong nhớ quá sâu đậm, chưa lâu mà tưởng lâu vậy | |||
9 | Đại xa (xe quan đại phu) 大車 | 3 | 12 | Trai gái yêu nhau nhưng sợ pháp luật và người có quyền thế nghiệt ngã mà không dám đến với nhau | Nhà Chu suy, nhưng quan đại phu còn lấy hình pháp và chính trị sửa trị tư ấp của mình. Cho nên đứa dâm bôn kính sợ mà hát như thế. Nhưng đối với giáo hoá của thơ Chu Nam và Thiệu Nam thì cách xa rồi. Do đấy, có thể xem xét thấy đời đã biến đổi | |||
10 | Khâu trung hữu ma (trong gò có lúa ma) 丘中有麻 | 3 | 12 | Lời chế giễu, pha chút ghen tuông của cô gái khi người yêu không đến chỗ hẹn | Người con gái này mong đợi chàng trai tự tình với mình, nhưng chàng ấy không đến, cho nên nghi rằng trên gò chỗ có lúa ma lại có một nàng khác đang tư tình với chàng mà giữ chàng lại. Chàng làm sao vui vẻ mà đến với nàng ấy được ? | |||
3 | Trịnh phong 鄭風 | 1 | Tri y (áo đen) 緇衣 | 3 | 12 | Áo đen là áo quan đại phu đời Chu. Tình cảm của nhân dân với các vị quan hiền tài | Thuyết xưa nói rằng Trịnh Hoàn xông và Trịnh Vũ công nối nhau làm Tư đồ cho nhà Chu, làm rất giỏi chức vụ của mình. Nhân dân nhà Chu thương mến hai ngài mà làm bài thơ này | |
2 | Tương (hoặc Thương) Trọng Tử (xin chàng Trọng Tử) 將仲子 | 3 | 24 | Tình yêu bị gò bó, cô gái dặn chàng trai không nên đến nhà tìm cô vì sợ cha mẹ anh em quở trách, dù cô rất yêu chàng | Đây là lời kẻ dâm bôn | |||
3 | Thúc vu điền (Cung Thúc Đoạn đi săn) 叔于田 | 3 | 15 | Cung Thúc Đoạn[3] bất nghĩa mà được lòng dân, nên người trong nước thương mến mới làm bài thơ này. Hoặc nghi đây cũng là lời của con trai con gái trong nhân gian yêu mến nhau | ||||
4 | Thái thúc vu điền (Cung Thúc Đoạn đi săn) 大叔于田 | 3 | 30 | Ca ngợi tinh thần dũng cảm và kĩ thuật cưỡi ngựa bắn cung của một võ sĩ lúc đi săn | Người trong nước răn Cung Thúc Đoạn rằng "Xin ngài chớ tập quen đi săn, e có khi sẽ bị thương". Vì Cung Thúc Đoạn nhiều tài, lại thích vũ dũng, khiến dân nước Trịnh thương yêu đến như thế | |||
5 | Thanh nhân (người Thanh) 清人 | 3 | 12 | Tình cảnh quân đội rã rời nhụt khí chiến đấu | Trịnh Văn công ghét Cao Khắc, đem binh ở ấp Thanh phòng ngự rợ Địch trên bờ sông Hoàng Hà, phòng ngự ở đấy đã lâu mà không được triệu hồi, quân lính mới tản ra mà trở về, người nước Trịnh làm bài thơ này để phô bày việc ấy ra | |||
6 | Cao cầu (áo da dê) 羔裘 | 3 | 12 | Lời khen tặng quan đại phu không thay đổi tiết tháo | Nói áo da trơn mướt, lông xuôi thuận mà đẹp. Vị kia mặc áo ấy, trong cảnh hiểm nguy sống chết biết đặt mình theo lẽ phải mà chịu đựng, và không cải đoạt biến thay ý chí của mình. Ấy là lời khen quan đại phu, nhưng không biết nhắm vào ai | |||
7 | Tuân đại lộ (đi theo đường cái) 遵大路 | 2 | 8 | Người con gái trách chồng ruồng rẫy mình | Người đàn bà dâm bôn bị người ta ruồng bỏ, nàng liền nắm lấy vạt áo chồng mà giữ lại, van xin chồng đừng phụ bạc | |||
8 | Nữ viết kê minh (nàng nói gà gáy) 女曰鷄鳴 | 3 | 18 | Người vợ khuyên chồng phận sự kẻ làm trai, gia đình hòa thuận | Đây là nhà thơ thuật lại lời của người vợ khuyên khéo chồng phải dậy sớm săn bắn để thực hiện phận sự nam nhi, vợ chồng cùng vui. Niềm vui hoà hảo không dâm có thể thấy được | |||
9 | Hữu nữ đồng xa (cô gái cùng xe) 有女同車 | 2 | 12 | Tả người con gái đẹp đẽ, đức hạnh đi cùng xe | ||||
10 | Sơn hữu phù tô (núi có cây phù tô) 山有扶蘇 | 2 | 8 | Lời người con gái trêu ghẹo tình nhân | Người con gái dâm loạn nói giỡn với người nhân ngãi đang tự tình rằng "Trên núi thì có cây phù tô, dưới thấp có hoa sen. Nay sao chẳng gặp người đẹp trai tử tế, mà chỉ thấy anh khùng này thôi" | |||
11 | Thác hề (cây khô) 蘀兮 | 2 | 8 | Người con gái mạnh dạn mời con trai cùng nhảy múa | Đây là lời nói của người con gái dâm loạn | |||
12 | Giảo đồng (thằng bé gian xảo) 狡童 | Đây là lời người con gái dâm loạn bị bỏ rơi mỉa mai người tình | ||||||
13 | Khiên thường (vén quần) 褰裳 | 2 | 10 | Người con gái trêu ghẹo, chê bai người con trai làm cao, không đoái hoài đến tình cảm của cô | Là lời người con gái nói với người tình | |||
14 | Phong (đẹp đẽ) 丰 | 4 | 16 | Người con trai được người con gái hẹn hò đã đến đợi ở ngoài cửa, mà người con gái lại có tình ý khác, chẳng chịu đi theo. Thế rồi nàng hối hận, mới làm bài thơ này | ||||
15 | Đông môn chi thiện (chỗ cúng ở cửa Đông) 東門之墠 | 2 | 8 | Người con gái yêu đơn phương chàng trai, nhớ đến chỗ chàng ở mà than thở sao chàng không đến với mình | Bên cửa thành có miếng đất phẳng để cúng tế, phía ngoài miếng đất phẳng ấy có bờ dốc, trên bờ dốc có cỏ như lư, nàng nhớ chỗ ở của người thông gian với nàng ở đấy | |||
16 | Phong vũ (mưa gió) 風雨 | 3 | 12 | Niềm vui ngây ngất của cô gái khi gặp người cô yêu | ||||
17 | Tử khâm (áo chàng) 子衿 | 3 | 12 | Cô gái nhớ thương người yêu tha thiết, nhớ đến cả y phục chàng mặc | ||||
18 | Dương chi thủy (nước chảy lững lờ) 揚之水 | 2 | 12 | Cô gái khuyên người yêu giữ trọn niềm tin giữa hai người | Đứa dâm loạn bảo nhau rằng, dòng nước chảy chậm chạp lững lờ, không cuốn trôi được bó gỗ. Rốt cuộc anh em ruột thịt của em và chàng đều ít, chỉ có đôi ta, há lại lấy lời nghi gián của người khác mà nghi kỵ hay sao ? Lời của người ấy chỉ riêng dối gạt anh mà thôi | |||
19 | Xuất kì Đông môn (ra khỏi cửa Đông) 出其東門 | 2 | 12 | Lòng chung thủy mến thương vợ của người chồng, không xao xuyến trước các cô gái khác | Lúc ấy, thói dâm loạn đã lan tràn, nhưng trong khoảng đó, lại có người như thế, cũng có thể gọi là biết giữ mình trong sạch mà không bị thói tục biến đổi. Xem thế thì câu nói "lòng biết thẹn, biết xấu, ai cũng có" há lại không tin như thế hay sao ? | |||
20 | Dã hữu man thảo (ngoài nội có cỏ mọc lan) 野有蔓草 | 2 | 12 | Sự tâm đầu ý hợp của đôi trai gái tình cờ gặp nhau | Trai gái gặp nhau ngoài đồng ruộng đầy cỏ sương, nói ngoài đồng nội có cỏ mọc lan ra, thì sương lộ rơi xuống đậm đà. Có một người đẹp, mày đẹp mắt trong, tình cờ không hẹn mà gặp, rất hợp ý nguyện của ta. | |||
21 | Trăn Vĩ[4] 溱洧 | 2 | 24 | Trai gái dạo chơi hẹn hò bên bờ sông, trao nhau tình cảm thắm thiết | Theo phong tục nước Trịnh, vào ngày tỵ trong thượng tuần tháng ba, người ta hái hoa lan ở trên bờ sông để trừ tai và cầu phúc. Cho nên cô gái yêu cầu cậu con trai cùng đi nô đùa với nhau ở đấy, rồi lại lấy hoa thược dược mà tặng để kết ân tình nồng hậu | |||
Tề phong 齊風 | 1 | Kê minh (gà gáy) 雞鳴 | 3 | 12 | Lời người hiền phi khuyên nhà vua ra chầu sớm, lo toan công việc quốc gia. Cũng có người cho rằng đây là cuộc đối thoại giữa vua và hiền phi, bà thì bảo gà gáy, trời đã sáng; vua lấy lý do tiếng ruồi bay, trời sáng trăng để nói đêm còn sớm[5]. Cốt vẫn là ca ngợi bà hiền phi | Người hiền phi hầu bên vua, lúc gần sáng, tâu với vua rằng "Gà đã gáy rồi, triều thần đã đầy đủ", vua dậy sớm ra chầu. Thật ra chẳng phải gà gáy, mà là tiếng ruồi xanh bay, bà hiền phi nghe tiếng ruồi mà nhận là tiếng gà. Nếu chẳng phải lòng nàng lo sợ e dè để khỏi phải lâm vào con đường dật dục, thì làm sao lại được như thế ? | ||
2 | Tuyền (nhanh nhẹn) 還 | 3 | 12 | Lời châm biếm vua chúa, quan chức ham săn bắn mà quên việc chính trị, gặp nhau thì chỉ khen ngợi nhau săn tài bắn giỏi, tuyệt nhiên không nói đến việc nước | Vua chúa, quan lại ham săn bắn bỏ phế việc chính trị. Họ gặp nhau ở bên đường, lại lấy việc nhanh nhẹn khen tặng nhau, mà chẳng tự biết việc sai lầm của mình, thì phong tục không được đẹp đẽ có thể nhận thấy | |||
3 | Trử (ngoài cửa) 著 | 3 | 9 | Cảnh chàng rể chờ rước cô dâu | Về hôn lễ, chàng rể đến nhà vợ để rước dâu, sau khi đã làm lễ trao chim nhạn thì đánh xe mà trở về trước, đứng đợi ở ngoài cửa. Khi cô dâu đến, chàng rể chắp tay vái chào mà đưa vào. Lúc ấy, phong tục nước Tề không có rước dâu, cho nên cô dâu đến cửa mới thấy chàng rể đứng chờ mà thôi | |||
4 | Đông phương chi nhật (mặt trời phương đông) 東方之日 | 2 | 14 | Trai gái yêu nhau quấn quýt không rời | ||||
5 | Đông phương chi vị minh (trời đông chưa sáng) 東方未明 | 3 | 12 | Lời châm biếm quan coi giờ không hoàn thành nhiệm vụ, hiệu lệnh nhà vua nhiều chỗ sai lầm | Việc đi chầu của quần thần, khi sáng rõ, phân biệt được màu sắc mới nhập triều. Nhà thơ này châm biếm vua của mình ăn uống thức ngủ không có thời tiết, hiệu lệnh sai khiến không có giờ khắc, khiến quần thần phải chịu đựng khổ sở, vội vã vào triều không chuẩn bị được gì cả | |||
6 | Nam sơn (núi Nam) 南山 | 4 | 24 | Lời châm biếm sự bại hoại đạo lý, loạn luân trong tầng lớp thống trị nước Tề | Núi Nam nước Tề là đất của nước Lỗ. Nàng Văn Khương, em gái của Tề Tương công, phu nhân của Lỗ Hoàn công, cùng chồng đến nước Tề năm 694 TCN, bị Tương Công thông dâm. Tương Công làm vua ở ngôi cao, nhưng vẫn theo nết hạnh dâm tà mà Hoàn Công quản lý vợ không nghiêm, đều đáng trách | |||
7 | Phủ điền (ruộng lớn) 甫田 | 3 | 12 | Bài thơ nầy răn người đương thời ghét việc nhỏ mà lo làm việc to, bỏ việc kề gần mà mưu tính việc xa, sẽ chỉ lao nhọc mà không ra công cán gì. Cứ theo thứ tự mà lo liệu thì có thể chợt thình lình đến mức tột cùng được. Nếu vượt bực mà muốn mau gấp, thì trái lại, có khi không thành | ||||
8 | Lô linh (tiếng chó sủa và tiếng vòng đeo cổ) 盧令 | 3 | 6 | Tả buổi đi săn của người quyền quý, có con chó săn màu đen cổ đeo vòng nhạc, vừa chạy vòng vừa kêu | Đại ý giống bài Tuyền | |||
9 | Tệ cẩu (cái đó bắt cá rách) 敝笱 | 3 | 12 | Năm 692 TCN, phu nhân Văn Khương gặp Tề Hầu ở đất Chước. Năm 690 TCN, thết đãi Tề Hầu ở Chúc Khâu. Năm 689 TCN, đến Tề Sư. Năm 687 TCN, gặp Tề Hầu ở đất Phòng, lại gặp Tề Hầu ở đất Cốc. Người nước Tề lấy việc cái đó rách không bắt được cá to mà ví với Lỗ Trang Công không ngăn được bà Văn Khương dâm loạn | ||||
10 | Tái khu (xe rong ruổi) 載驅 | 4 | 16 | Người nước Tề châm biếm Văn Khương đi xe đến "hội họp" với Tề Tương Công | ||||
11 | Y ta (dồi dào thay) 猗嗟 | 3 | 18 | Người nước Tề hết sức khen tặng Lỗ Trang công có uy nghi, khéo léo và giỏi giang để châm biếm ông không biết lấy lễ ngăn ngừa mẹ. Chồng mất thì theo con, lẽ ấy đã thông dụng khắp thiên hạ, huống hồ là bực làm vua. Việc phu nhân Văn Khương như thế vì Trang Công thương kính không được đúng mức, uy quyền và mệnh lệnh không thi hành. | ||||
Ngụy phong 魏風 | 1 | Cát cú (dép gai) 葛屨 | 2 | 12 | Chế giễu thói keo kiệt, vụn vặt của người gia trưởng. Hoặc cũng là tâm sự của người đầy tớ gái, may áo cho bà chủ mặc nhưng bà chủ quay đi, không thèm nhìn, khiến cô uất ức châm biếm | Đất đai nước Nguỵ chật hẹp, phong tục cần kiệm hà tiện mà lại hẹp hòi nóng nảy, cho nên mới lấy việc dùng dép bằng gai để đi giẫm lên sương mà khởi hứng, châm biếm việc sai khiến nàng dâu mới cưới chưa làm lễ yết kiến tông miếu, phải may quần và lại khiến nàng vá sửa lưng quần cổ áo để mặc vào ngay | ||
2 | Phần tứ nhu (bãi trũng sông Phần) 汾沮洳 | 3 | 18 | Đây cũng là bài thơ châm biếm việc cần kiệm thái quá không đúng lễ | ||||
3 | Viên hữu đào (vườn có đào) 園有桃 | 2 | 24 | Nhà thơ lo cho nước nhỏ bé mà không có nền chính trị tốt mới làm bài thơ này, than thở rằng mình lo âu vì việc nước mà bị người đời chê là kiêu ngạo. Người lo âu lại càng than thở, vì việc đáng lo ấy vốn không phải điều khó hiểu. Kẻ chê ta chỉ vì chưa suy nghĩ đến thôi. Nếu thành thật mà suy nghĩ đến thì sẽ tự mình sầu lo vậy | ||||
4 | Trắc hộ (lên núi) 陟岵 | 3 | 18 | Tâm tình nỗi lòng của người thân khi có người nhà đi phu phen, binh dịch | Đứa con có hiếu đi quân dịch ở xa, không quên cha mẹ, mới lên núi ngóng trông về nơi cha đang ở, nhân đấy tưởng tượng cha đang nhớ đến mình | |||
5 | Thập mẫu chi gian (ở trong mười mẫu) 十畝之間 | 2 | 6 | Chính trị hỗn loạn, quốc gia khuynh nguy, người hiền tài không thích làm quan trong triều đình, mà lo cùng bè bạn trở về vườn ruộng, cho nên thốt ra những lời như thế | ||||
6 | Phạt đàn (chặt gỗ đàn) 伐檀 | 3 | 27 | Người đẵn gỗ làm suốt ngày bên bờ sông nhưng không no đủ cái ăn, còn người "quân tử" không cày cấy, săn bắn mà lúa thóc, thịt thà đầy nhà. Từ đó, lời thơ nêu ra và châm biếm sự bất công vô lý trong quan hệ giữa các tầng lớp xã hội | Nhà thơ nói, có người dùng sức đốn cây đàn làm xe mà đi, nay để khúc cây ấy bên bờ sông thì gỗ không dùng vào việc gì cả. Cũng như muốn tự làm tự ăn mà không thể được vậy. Nhưng chí của người ấy cho là nếu không chịu cày cấy thì không thể có lúa, không săn bắn thì không thể có thú. Thế nên cam chịu cùng quẫn thiếu đói mà không hối hận gì. Người quân tử chẳng chịu ngồi không mà hưởng thụ | |||
7 | Thạc thử (chuột to) 碩鼠 | 3 | 24 | Lấy hình tượng con chuột to để ví với tầng lớp thống trị trong xã hội, đồng thời cũng nêu lên khao khát được sống trong xã hội không bị bóc lột, áp bức | Dân chúng đã khốn đốn vì chính trị tham tàn, cho nên nói thác rằng vì con chuột to đã làm hại mình mà bỏ đi nơi khác | |||
Đường phong 唐風 | 1 | Tất suất (con dế) 蟋蟀 | 3 | 24 | Phong tục nước Đường cần kiệm, dân chúng lao khổ suốt năm, không dám nghỉ ngơi. Đến cuối năm, dế kêu, rảnh việc đồng áng mới dám yến ẩm cho vui, nhưng vẫn răn nhau không được ham vui quá mà quên việc. Vì phong tục của dân đôn hậu, phong hoá của thánh nhân đời trước sót lại nên sâu xa như thế | |||
2 | Sơn hữu xu (núi có cây xu) 山有樞 | 3 | 24 | Triết lý ngụ rằng, ai rồi cũng chết, nên vui chơi cho thỏa, chớ đừng bo bo tằn tiệm quá. Có người cho đây là lời của quý tộc sa sút, muốn hưởng thụ nốt của cải, thể hiện tư tưởng bi quan chán chường[6] | Bài thơ này cũng có ý đáp lại bài "Tất suất" mà giải nỗi ưu lo ấy. Nói rằng trên núi có cây xu, dưới thấp có cây du, ngài có áo quần xe ngựa mà không mặc, không đi, nhỡ một hôm ngài chết thì người khác hưởng mất. Vì vậy không thể nào không vui chơi cho kịp thời | |||
3 | Dương chi thủy (nước trôi lững lờ) 揚之水 | 3 | 18 | Dân chúng che chở, ủng hộ người quân tử dựng nước | Tấn Chiêu hầu phong cho người chú là Thành Sư ở đất Khúc Ốc, gọi là Hoàn Thúc. Về sau, Ốc cường thịnh, Tấn suy vi, người Tấn phản lại mà theo Ốc, cho nên làm bài này. Nói rằng, nước chảy chậm, đá vút cao để sánh với việc Tấn suy, Ốc thịnh. Hoàn Thúc sắp khuynh đảo nước Tấn, được dân chung che giấu cho, vì muốn ngài thành công. Kẻ bề tôi phản loạn, muốn thi hành chí mình, trước phải thi ân nhỏ mọn để thu nhân tâm, rồi sau dân mới hợp nhau mà theo | |||
4 | Tiêu liêu (cây tiêu) 椒聊 | 2 | 12 | Cây tiêu nảy nở lan ra, hái trái để đầy thăng. Đấy không biết trỏ vào ai. Bài tự ở sách Mao thi cũng cho là nước Ốc (nước Ốc của Hoàn Thúc thì thịnh vượng, còn nước Tấn thì suy vi). | ||||
5 | Thù mâu (quấn quýt) 綢繆 | 3 | 18 | Lời trai gái mừng rỡ vì được thành vợ chồng | Nước loạn dân nghèo, nam nữ cưới gả trễ mùa rồi sau mới cưới được thành hôn lễ. Việc thành, vợ chồng tâm sự với nhau | |||
6 | Đệ đỗ (cây đỗ lẻ loi) 杕杜 | 2 | 18 | Đây là lời của người không có anh em, tự xót thương cho mình cô độc mà cầu xin người giúp đỡ. Cây đỗ lẻ loi một mình mà lá vẫn xanh tươi rườm rà, còn người không có anh em thì đi một mình lẻ loi, chẳng được như cây đỗ vậy | ||||
7 | Cao cầu (áo da dê) 羔裘 | 2 | 8 | Thiên này là lời châm biếm quan đại phu nước Tấn không ưa dân, không chịu gần gũi dân | ||||
8 | Bảo vũ (cánh chim bảo) 鴇羽 | 3 | 21 | Dân chúng phải đi tùng chinh, không được nuôi dưỡng cha mẹ, cho nên làm bài thơ này. Nói tính chim bảo không hay đậu trên bụi cây, mà nay lại đậu trên bụi cây hủ, như dân vốn không tiện lao khổ, mà đánh giặc đã lâu không được tròn phận làm con. Trời xanh xa vời kia, lúc nào khiến cho ta được nơi yên ổn để phụng dưỡng cha mẹ ? | ||||
9 | Vô y (không có áo) 無衣 | 2 | 6 | Năm 679 TCN, Tấn Vũ công là cháu Hoàn Thúc ở đất Khúc Ốc, diệt nước Tấn, lấy hết đồ báu của Tấn đem hối lộ cho Chu Ly Vương. Ly Vương cho làm vua Tấn, liệt vào hàng chư hầu. Bài này thuật lại ý cầu xin mệnh lệnh nhà Chu của Vũ Công. Lúc ấy, Chu suy, nhưng phép tắc vẫn còn. Vũ Công mang tội giết vua đoạt nước thì phải đánh phạt. Ly Vương tham của báu mà không biết đến kỷ cương phép tắc. Than ôi! Đau xót thay! | ||||
10 | Hữu đệ chi đỗ (có cây đỗ lẻ loi) 有杕之杜 | 2 | 12 | Người này thích hiền tài, nhưng ngại mình không đủ đức để khiến họ đến với mình. Nói rằng cây đỗ lẻ loi mọc ở ven đường, bóng mát không đủ để người ta nghỉ ngơi. Nhưng lòng thích quân tử mãi không thôi, chỉ hiềm không biết làm sao để họ đến cho mình nuôi dưỡng. Ôi, tấm lòng háo hiền như thế, có lẽ nào mà bực hiền tài lại không đến ? | ||||
11 | Cát sinh (cây sắn dây) 葛生 | 5 | 20 | Người vợ vì chồng đi quân dịch lâu không thấy về, cho nên nói dây sắn mọc mà phủ lên cây sở, cỏ liêm mọc lan ra ngoài đồng, mỗi loại cây đều có nơi nương tựa, còn ta chẳng có chồng mà nương tựa | ||||
12 | Thái linh (hái linh) 采苓 | 3 | 24 | Đây là bài thơ châm biếm người ưa nghe lời gièm pha. Nói rằng có người nói hái cây linh thì lên đỉnh núi Thủ Dương, nhưng chớ vội tin lời ấy. Phải thủng thẳng xét xem, nghe ngóng phán đoán, thì kẻ kia chẳng được kết quả gì, tất việc gièm pha phải dứt ngay | ||||
Tần phong 秦風 | 1 | Xa lân (xe chạy rầm rầm) 車鄰 | 3 | 16 | Lời ca ngợi vị vua hiền minh, đáng thơ | Lúc ấy vua Tần mới có xe ngựa, người trong nước mới thấy lần đầu khoe khoang khen ngợi | ||
2 | Tứ thiết (bốn ngựa) 駟驖 | 3 | 12 | Vua tôi hòa hợp cùng đi săn bắn | ||||
3 | Tiểu nhung (xe binh) 小戎 | 3 | 30 | Tướng công nước Tần, vâng mạng lệnh thiên tử nhà Chu đi đánh rợ Tây Nhung. Cho nên người nhà đi theo đánh giặc, trước thì khoe binh xa áo giáp nhiều, sau thì kể nỗi tình riêng. Vì nghĩa mà dấy binh, thì dẫu đàn bà con gái cũng biết mạnh dạn xông ra cự địch mà không hề oán thán | ||||
4 | Kiêm gia[7] (lau lách) 蒹葭 | 3 | 24 | Giống như bản tình ca, nói về một sáng sớm mùa thu, sương trên lau sậy chưa tan, một người đi tìm một người, phảng phất trông thấy mà tìm không thấy | Nói mùa tiết thu nước vừa đầy, người kia lại ở về một phương của vùng nước mênh mông, lai láng. Đi ngược lên hay đi xuôi dòng đều không gặp được. Không biết chỉ về ai mà nói thế | |||
5 | Chung Nam (núi Chung Nam) 終南 | 2 | 12 | Đây là lời nói của người nước Tần, khen tặng vua mình, cũng đồng một ý tứ với Xa lân, Tứ thiết | ||||
6 | Hoàng điểu (chim hoàng ly) 黃鳥 | 3 | 36 | Bài vãn ai điếu ba người hiền họ Tử Xa bị chôn sống theo Tần Mục công | Năm 620 TCN, Tần Mục công chết, nước Tần đem chôn ba anh em họ Tử Xa là Yểm Tức, Trọng Hàng, Châm Hổ theo Mục công, họ đều là bậc hiền tài. Người Tần thương xót, mới làm bài này để phô bày việc ấy. Xét thấy Mục Công làm thế, tội lỗi không thể trốn tránh nhưng thói ấy thành lệ thường ở Tần, thì dẫu Mục Công là người hiền đức cũng không tránh khỏi. Nhà Chu không giữ giềng mối, chư hầu tự chuyên, giết người không kiêng sợ, phong tục tệ hại thay! | |||
7 | Thần phong (chim cắt) 晨風 | 3 | 18 | Người vợ vì chồng đi vắng, chưa thấy được chàng, lòng buồn lo không thể dứt được. Nhân đó mà than người chồng sao nỡ quên mình đến thế ? Bài này đồng một ý với bài Diễm di ca do vợ Bách Lý Hề hát. Vì đó là phong tục nước Tần | ||||
8 | Vô y (không có áo) 無衣 | 3 | 15 | Lòng hăng hái kháng chiến chống xâm lược Khương Nhung của dân Tần | Phong tục nước Tần mạnh tợn hung hăng, ưa việc chiến đấu. Cho nên người Tần nói với nhau, sắp dấy binh theo lệnh thiên tử, phải sửa soạn giáo mâu để đi đánh kẻ thù, anh không có áo thì mặc chung với tôi. Đó là lòng yêu thương lẫn nhau đã đủ khiến người ta cùng chết với nhau như thế. Tần đất dày, sông sâu, dân chúng trọng hậu, chất phác, ngay thẳng, lấy điều thiện để dẫn dắt dân chúng, lấy mạnh bạo mà khu xử dân chúng, nước vùng Sơn Đông không thể nào theo kịp được.Đời sau nếu không muốn lo toan cái kế sách dựng nước thì thật không thể nào không lấy đó làm gương | |||
9 | Vị Dương 渭陽 | 2 | 8 | Tấn Văn công, hồi còn làm công tử Trùng Nhĩ, chạy loạn đến Tần, anh rể ông là Tần Mục công dung nạp. Sau rời Tần, cháu gọi ông bằng cậu là Tần Khang công (hãy còn làm Thái tử) đi tiễn, tưởng nhớ đến mẹ đã mất, làm bài này. | ||||
10 | Quyền dư (lúc ban đầu) 權輿 | 2 | 10 | Lời người hiền lần lần bị bạc đãi than trách. Có người cho là lời than vãn đời sống nay không bằng xưa của tầng lớp quý tộc[6] | Sở Nguyên Vương đời Hán lấy lễ kính đãi Thân Công, Bạch Công và Mục Sinh. Mục Sinh không thích rượu cay, Nguyên Vương bày tiệc rượu, thường bày rượu ngọt. Đến khi con lên ngôi, bày tiệc, quên rượu ngọt. Mục Sinh thác bệnh. Thân Bạch cố nài, nói đến ơn nghĩa vua xưa. Mục Sinh đáp "Vua trước lấy lễ mà đãi ta vì đạo hãy còn. Vua nay sơ sót, tức là quên đạo. Ta há lại khu khu vì cái lễ mọn kia hay sao ?" Bèn thác bịnh mà bỏ đi. Cũng là ý bài thơ này. | |||
Trần phong 陳風 | 1 | Uyển khâu (gò Uyển) 宛丘 | 3 | 12 | Việc chơi bời ở gò Uyển của người nước Trần | |||
2 | Đông môn chi phần (cây phần cửa Đông) 東門之枌 | 3 | 12 | Trai gái tụ họp múa hát vui vẻ để trao ân tình | Ở đây trai gái tụ hội lại ca múa để vui với nhau. Đã chọn buổi sáng tốt lành để tụ hội nơi cánh đồng bằng ở phía nam, cho nên phải bỏ việc mà đến. Nhiều người đến, trai gái tặng nhau bó hoa để kết hảo tình | |||
3 | Hoành môn (cổng nhỏ) 衡門 | 3 | 12 | Đây là lời người ở ẩn tự vui thích mà không có cầu điều gì cả. Nói rằng cổng thô sơ bỉ lậu, nhưng cũng có thể dạo chơi mà nghỉ ngơi. Nước suối tuy không thể uống mà no được, nhưng cũng có thể vui chơi mà quên đói | ||||
4 | Đông môn chi trì (ao ở cửa Đông) 東門之池 | 3 | 12 | Trai gái tâm đầu ý hợp, nói chuyện tâm tình mà hiểu lòng nhau | Đây là những lời trai gái lúc mới gặp nhau. Vì là nhân chỗ gặp nhau và nhân những vật trông thấy mà khởi hứng | |||
5 | Đông môn chi dương (cây dương liễu ở cửa Đông) 東門之楊 | 2 | 8 | Đây cũng là việc trai gái hẹn hò nhau mà có người quên lời ước hẹn, không đến, cho nên nhân những điều đã trông thấy mà khởi hứng | ||||
6 | Mộ môn (cửa mộ) 墓門 | 2 | 12 | Đả kích kẻ chấp chính bất lương, bài tựa Mao thi cho là đả kích Trần Đà, chưa biết có thật hay không[8]. Lấy hình tượng rìa phạt gai gốc trước cửa mộ để nói lên nguyện vọng muốn trừ bỏ kẻ ấy | Kẻ xấu đã được cảnh cáo mà vẫn quen thói cũ, không chịu hối cải | |||
7 | Phòng hữu thước sào (trên đê có tổ chim thước) 防有鵲巢 | 2 | 8 | Lo buồn người yêu bị kẻ khác lừa gạt, phỉnh nịnh | Đây là lời trai gái tư thông nhau, mà lo có kẻ chen vào tách lìa đôi lứa, lấy hình tượng trên bờ đê có ổ chim thước, trên gò có cây điều đẹp đẽ mà nói kẻ ấy là ai lại phỉnh gạt người đẹp của ta, khiến ta lo ưu như vậy? | |||
8 | Nguyệt xuất (trăng ló) 月出 | 3 | 12 | Nỗi nhớ người đẹp tha thiết trong lòng đến nỗi lo âu, buồn bã | ||||
9 | Tru Lâm (ấp Tru Lâm) 株林 | 2 | 8 | Há Trưng Thư là con của Há Ngự Thúc, đại phu nước Trần và Hạ Cơ, con gái Trịnh Mục công. Trưng Thư được phong ở ấp Tru Lâm. Trần Linh công thông dâm với Hạ Cơ, sớm tối đến ấp, cho nên dân chúng ở đấy làm bài thơ này để trỏ việc ấy. Về sau, Linh công rốt cuộc bị Há Trưng Thư giết, rồi Trưng Thư bị Sở Trang công giết chết | ||||
10 | Trạch bi (bờ đầm) 澤陂 | 3 | 18 | Đau đớn sầu thảm vì không gặp được người yêu | Ý bài thơ này giống như của bài Nguyệt xuất | |||
Cối phong 檜風 | 1 | Cao cầu (áo da dê) 羔裘 | 3 | 12 | Theo thuyết xưa ở sách Mao thi, vua nước Cối ưa thích áo quần sạch sẽ để đi dạo chơi, yến ẩm, mà không thể tự cường về chính trị, cho nên nhà thơ mới lo ngại | |||
2 | Tố quan (mũ lụa trắng) 素冠 | 3 | 9 | Mong mỏi được thấy lại lễ chế tang phục đời xưa, tức thấy đạo hiếu của cổ nhân được noi theo | Người bấy giờ không để tang ba năm, thì làm sao thấy được tang phục. Người hiền đương thời mong mỏi được thấy mà đến nỗi phải nhọc lòng lo nghĩ | |||
3 | Thấp hữu trường sở (chỗ thấp có cây trường sở) 隰有萇楚 | 3 | 12 | Chính trị phiền phức, thuế má nặng nề, nhân dân không thể kham nổi khổ cực, than rằng muốn làm loài cây cỏ vô tri để khỏi phải ưu phiền | ||||
4 | Phỉ phong (chẳng phải gió) 匪風 | 3 | 12 | Nhà Chu suy vi, người hiền tài buồn mà làm bài thơ này | ||||
Tào phong 曹風 | 1 | Phù du (con thiêu thân) 蜉蝣 | 3 | 12 | Ngao ngán chuyện người đời ham vật chất nhỏ mọn và tỏ ý muốn về ở ẩn để được yên lành | Bài thơ này có lẽ lấy việc người đương thời ham mê những cuộc vui chơi nhỏ mọn mà quên lo xa, cho nên lấy con thiêu thân so sánh để mà châm biếm. Bài tự ở sách Mao Thi cho là châm biếm vua chư hầu nước Tào, có lẽ đúng như thế mà chưa khảo xét được | ||
2 | Hậu nhân (quan hậu) 候人 | 4 | 16 | Châm biếm bọn tiểu nhân nhỏ mọn mà được chức quan to | Đây là lời châm biếm vua nước Tào xa bậc quân tử mà gần kẻ tiểu nhân. Vua Tấn Văn công tiến quân vào Tào, trách vua Tào không dùng người quân tử Hy Phụ Ky, mà kẻ tiểu nhân đi xe hiên của bực khanh đại phu đến ba trăm người, là nói về việc này chăng ? | |||
3 | Thi cưu (chim thi cưu) 鳲鳩 | 4 | 24 | Nhà thơ khen tặng người quân tử dụng tâm công bình đều nhau như một, cho nên nói rằng chi thi cưu thì ở trên cây dâu, có bảy chim con. Còn bực hiền nhân quân tử uy nghi chỉ có một thôi. Uy nghi không biến đổi có thể sửa trị bốn phương, sống lâu đến muôn tuổi | ||||
4 | Hạ tuyền (nước suối chảy xuống) 下泉 | 4 | 16 | Nhà Chu suy đồi, các nước nhỏ khốn đốn tồi tệ, cho nên lấy dòng suối nước lạnh chảy xuống mà bụi cỏ lang um tùm bị tổn thương để ví, rồi hứng khởi than thở tưởng nhớ đến kinh đô nhà Chu trong thời thịnh trị | ||||
Mân (Bân) phong 豳風 | 1 | Thất nguyệt (tháng bảy) 七月 | 8 | 88 | Những nỗi khổ quanh năm trong việc làm nông của dân và cuộc sống của tầng lớp trên, nhiều đoạn cảm thán, chắc là bản thân dân chúng tự kể, lưu truyền rồi thêm thắt vào | Chu Công Đán, vì Chu Thành Vương chưa biết nỗi khổ về cấy gặt của việc làm ruộng, khiến những chức quan mù sớm tối ca vịnh bài thơ này để dạy Thành Vương. Ngưỡng lên quan sát sự biến đổi của tinh tú, mặt trời và sương lộ, cúi xuống xem xét sự biến hoá của côn trùng cây cỏ mà biết thời tiết để giao phó công việc cho dân. Đàn bà con gái phụng sự ở trong, đàn ông con trai phụng sự ở ngoài. Bề trên chân thật thương yêu kẻ dưới, kẻ dưới lấy lòng trung thành làm lợi bề trên. Cha đáng phận cha, con đáng phận con, chồng đáng phận chồng, vợ đáng phận vợ. Phụng dưỡng người già cả, thương yêu trẻ con, sống với sức lực của mình làm mà giúp đỡ kẻ yếu đuối. Cúng tế thì đúng lúc, ăn uống vui chơi thì hợp thời, đấy là ý nghĩa của bài thơ Thất nguyệt này | ||
2 | Xi hiêu (cú vọ) 鴟鴞 | 4 | 20 | Con chim hết lòng bảo vệ tổ nó qua cơn giông bão | Chu Vũ Vương thắng Trụ, khiến em là Quản Thúc Tiên và Thái thúc Độ giám sát nước của Vũ Canh, con Trụ. Khi Vũ Vương băng, Thành Vương nối ngôi. Chu Công làm tướng cho Thành Vương, Quản Thúc và Thái thúc phao lời nói xấu rằng Chu Công sẽ làm phản. Cho nên Công phải đi chinh phạt hai năm, mới bắt được Quản Thúc và Vũ Canh giết đi, mà Thành Vương vẫn nghi ngờ. Công mới làm bài này gửi cho Vương, mượn việc con chim thương cái ổ của nó, rồi gọi con cú vọ mà nói rằng "Cú vọ, cú vọ ! Mầy đã bắt chim con của ta, thì chớ phá cái ổ của ta" để ví với Vũ Canh đã làm hư Quản Thái, nhưng không thể nào phá được nhà Chu. | |||
3 | Đông Sơn (phía đông núi) 東山 | 4 | 48 | Kẻ quân nhân trong chiến dịch đông chinh của Chu Công Đán mãn hạn về quê, dọc đường lo nghĩ đến cửa nhà, vợ con, nhân đó bộc lộ mơ ước được sống trong cảnh thái bình của dân chúng | Thành Vương nhà Chu đã được bài thơ Xi hiêu, cảm động vì sự biến hóa của sấm gió, mới bắt đầu tỉnh ngộ mà đón Chu Công, lúc ấy Chu Công đi đánh giặc phía đông đã ba năm rồi. Chu Công đã về, nhân đấy làm bài này để uý lạo quân sĩ, kể rõ nỗi lòng của họ. Người trên an ủi nnỗi nhọc nhằn dân, thì lòng dân thấm thía biết dường nào ? Tuy giữa cha con trong nhà nói chuyện với nhau cũng không ngoài lẽ ấy. | |||
4 | Phá phủ (cái búa hư) 破斧 | 3 | 18 | Binh lính đi đánh nhau lâu ngày, trở về, khí giới hư hỏng, mừng cho mình còn sống sót | Binh sĩ, vì ở bài trước đã được Chu Công an ủi ân cần, mới nói như thế này để đáp lại. Nói rằng, việc đông chinh đã khiến cây búa bị hư mẻ, thật là khổ nhọc vậy. Nhưng mà Chu Công làm việc ấy, là để các nước không dám đi ra ngoài chính đạo, dẫu khổ nhọc mấy ta dám từ nan ? | |||
5 | Phạt kha (đẽo búa) 伐柯 | 2 | 8 | Làm việc gì cũng có đường lối, như đẽo búa có hình cán búa cũ, cưới vợ có bà mai mối lo liệu | Lúc Chu Công ở phương đông, người phương đông nói lên những lời này để bày tỏ lòng thích mến sâu sa với ông | |||
6 | Cửu vực (chín cái lưới) 九罭 | 4 | 12 | Đây cũng là lúc Chu Công ở phía đông, người phía đông mừng được gặp ngài, mà nói rằng, cái lưới có chín túi thì có cá tôn, cá phòng. Ta đã gặp được Chu Công, thì đã thấy áo cổn và quần thêu của ngài | ||||
7 | Lang bạt (sói đi) 狼跋 | 2 | 8 | Chu Công dẫu bị phỉ báng, nhưng cách xử trí của ngài không mất độ thường, vẫn an nhiên tự đắc, bởi vì với đạo cao đức cả ngài vẫn được yên vui, đức hạnh ấy không thể nào nói xiết được. Ta có thể thấy tấm lòng của nhà thơ yêu mến Chu Công rất sâu xa, kính trọng Chu công rất cùng cực. |
Nhã 雅 | |||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Quyển | Phần | Cụm | Thứ tự | Bài | Số chương | Số câu | Tóm tắt nội dung | Tóm tắt chú giải của Chu Hy | Ghi chú |
4 | Tiểu nhã小雅 | Lộc minh chi thập 鹿鳴之什 | 1 | Lộc minh | 3 | 24 | Đãi đẳng tân khách để vua tôi quyến luyến nhau | ||
2 | Từ mẫu | 5 | 25 | Nỗi lòng của bề tôi vì việc vua sai mà không phụng dưỡng cha mẹ | |||||
3 | Hoàng hoàng giả hoa | 5 | 20 | Bề tôi lo công việc của vua sai | |||||
4 | Thường đệ | 8 | 32 | Anh em, vợ con thì bao giờ cũng quý hơn bạn hữu | |||||
5 | Phạt mộc | 3 | 36 | Tìm bạn bè, hậu đãi bạn bè | |||||
6 | Thiên bảo | 6 | 36 | Lời của bề tôi chúc tụng vua | |||||
7 | Thái vi | 6 | 48 | Nỗi lòng người chiến sĩ lúc ra đồn thú và lúc trở về | |||||
8 | Xuất xa | 6 | 48 | Quân đội đi và trở về sau khi thắng trận | |||||
9 | Đệ đỗ | 4 | 28 | Vợ mong chồng đi quân dịch mau trở về | |||||
10 | Nam cai | Không lời | |||||||
Bạch hoa chi thập 白華 之什 | 1 | Bạch hoa | Không lời | ||||||
2 | Hoa thử | Không lời | |||||||
3 | Ngư ly | 6 | 18 | ||||||
4 | Do canh | Không lời | |||||||
5 | Nam hữu gia ngư | 4 | 16 | ||||||
6 | Sùng khâu | Không lời | |||||||
7 | Nam sơn hữu đài | 5 | 30 | ||||||
8 | Do nghi | Không lời | |||||||
9 | Lục tiêu | 4 | 24 | ||||||
10 | Trẫm lộ | 4 | 16 | ||||||
5 | Tiểu nhã | Đồng cung chi thập 彤弓 之什 | 1 | Đồng cung | 3 | 18 | |||
2 | Tinh tinh giả nga | 4 | 16 | ||||||
3 | Lục nguyệt | 6 | 48 | ||||||
4 | Thái khỉ | 4 | 48 | ||||||
5 | Xa công | 8 | 32 | ||||||
6 | Cát nhật | 6 | 24 | ||||||
7 | Hồng nhạn | 3 | 18 | ||||||
8 | Đinh liệu | 3 | 15 | ||||||
9 | Miễn thủy | 3 | 22 (24) | ||||||
10 | Hạc minh | 2 | 18 | ||||||
Kỳ phủ chi thập 祈父 之什 | 1 | Kỳ phủ | 3 | 12 | |||||
2 | Bạch câu | 4 | 24 | ||||||
3 | Hoàng điểu | 3 | 21 | ||||||
4 | Ngã hành ký dã | 3 | 18 | ||||||
5 | Tư can | 9 | 53 | ||||||
6 | Vô dương | 4 | 32 | ||||||
7 | Tiệt nam sơn | 10 | 64 | ||||||
8 | Chinh nguyệt | 13 | 94 | ||||||
9 | Thập nguyệt chi giao | 8 | 64 | ||||||
10 | Vũ vô chính | 7 | 54 | ||||||
Tiểu mân chi thập 小旻 之什 | 1 | Tiểu mãn | |||||||
2 | Tiểu uyển | ||||||||
3 | Tiểu bàn | ||||||||
4 | Xào ngôn | ||||||||
5 | Hà nhân tư | ||||||||
6 | Hạng bá | ||||||||
7 | Cốc phong | ||||||||
8 | Lục nga | ||||||||
9 | Đại đông | ||||||||
10 | Tứ nguyệt | ||||||||
Bắc sơn chi thập 北山 之什 | 1 | Bắc sơn | |||||||
2 | Vô tương đại xa | ||||||||
3 | Tiểu minh | ||||||||
4 | Cổ chung | ||||||||
5 | Sở từ | ||||||||
6 | Tín Nam sơn | ||||||||
7 | Phủ điền | ||||||||
8 | Đại điền | ||||||||
9 | Chiêm bỉ lạc hỉ | ||||||||
10 | Thường thường giả hoa | ||||||||
Tang hỗ chi thập 桑扈 之什 | 1 | Tang hộ | |||||||
2 | Uyên ương | ||||||||
3 | Khuỷ biền | ||||||||
4 | Xa hạt | ||||||||
5 | Thanh nhăng | ||||||||
6 | Tân chi sơ diên | ||||||||
7 | Ngư tảo | ||||||||
8 | Thái thúc | ||||||||
9 | Giác cung | ||||||||
10 | Uất liễu | ||||||||
Đô nhân sĩ chi thập 都人士 之什 | 1 | Đô nhân sĩ | |||||||
2 | Thái lục | ||||||||
3 | Thử miêu | ||||||||
4 | Thấp tang | ||||||||
5 | Bạch hoa | ||||||||
6 | Miên man | ||||||||
7 | Hồ điệp | ||||||||
8 | Sàm sàm chi thạch | ||||||||
9 | Điều chi hoa | ||||||||
10 | Hà thảo bất hoàng | ||||||||
Phần Tiểu nhã còn có cách chia bố cục khác, bao gồm các cụm thơ: Lộc minh chi thập 鹿鳴之什 (13 bài, từ bài Lộc minh đến bài Hoa thử), Nam hữu gia ngư chi thập 南有嘉魚之什(13 bài, từ bài Nam hữu gia ngư đến bài Cát nhật), Hồng nhạn chi thập 鹿鳴之什 (10 bài, từ bài Hồng nhạn đến bài Vô dương), Tiết Nam Sơn chi thập 谷風之什 (10 bài, từ bài Tiết Nam Sơn đến bài Hạng Bá), Phủ điền chi thập 甫田之什 (10 bài, từ bài Phủ điền đến bài Tân chi sơ diên) và Ngư tảo chi thập (14 bài, từ bài Ngư tảo đến bài Hà thảo bất hoàng). | |||||||||
6 | Đại nhã大雅 | Văn Vương chi thập 文王之什 | 1 | Văn Vương | |||||
2 | Đại minh | ||||||||
3 | Miên | ||||||||
4 | Vực bốc | ||||||||
5 | Hạn lộc | ||||||||
6 | Tư trai | ||||||||
7 | Hoàng hĩ | ||||||||
8 | Linh dai | ||||||||
9 | Hạ Vũ | ||||||||
10 | Văn vương hữu thanh | ||||||||
Sinh dân chi thập 生民之什 | 1 | Sinh dân | |||||||
2 | Hành vĩ | ||||||||
3 | Kỷ túy | ||||||||
4 | Phù y | ||||||||
5 | Gia lạc | ||||||||
6 | Công lưu | ||||||||
7 | Huỳnh chước | ||||||||
8 | Quyền a | ||||||||
9 | Dân lao | ||||||||
10 | Bản | ||||||||
7 | Đại nhã大雅 | Đãng chi thập 蕩之什 | 1 | Đăng | |||||
2 | Ức | ||||||||
3 | Tang nhu | ||||||||
4 | Vân hán | ||||||||
5 | Tung cao | ||||||||
6 | Chưng dân | ||||||||
7 | Hàn dịch | ||||||||
8 | Giang Hán | ||||||||
9 | Thường vũ | ||||||||
10 | Chiêm ngưỡng | ||||||||
11 | Thiệu mân |
Tụng 頌 | |||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Quyển | Phần | Cụm | Thứ tự | Bài | Số chương | Số câu | Tóm tắt nội dung | Tóm tắt chú giải của Chu Hy | Ghi chú |
8 | Chu tụng 周頌 | Thanh miếu chi thập 清廟之什 | 1 | Thanh miếu | |||||
2 | Duy thiên chi mệnh | ||||||||
3 | Duy thanh | ||||||||
4 | Liệt văn | ||||||||
5 | Thiên tác | ||||||||
6 | Hạo thiên hữu thành mệnh | ||||||||
7 | Ngã tương | ||||||||
8 | Thi mại | ||||||||
9 | Chấp cạnh | ||||||||
10 | Tu văn | ||||||||
Thần công chi thập 臣工之什 | 1 | Thần công | |||||||
2 | Y hy | ||||||||
3 | Chẩn lộ | ||||||||
4 | Phong niên | ||||||||
5 | Hữu cổ | ||||||||
6 | Tiềm | ||||||||
7 | Ung | ||||||||
8 | Tài hiện | ||||||||
9 | Hữu khách | ||||||||
10 | Vũ | ||||||||
Mẫn dư tiểu tử chi thập 閔予小子之什 | 1 | Mẫu dư tiểu tử | |||||||
2 | Phỏng lạc | ||||||||
3 | Kính chi | ||||||||
4 | Tiểu bí | ||||||||
5 | Tái sam | ||||||||
6 | Lương tự | ||||||||
7 | Ty y | ||||||||
8 | Chước | ||||||||
9 | Hoàn | ||||||||
10 | Lại | ||||||||
11 | Bàn | ||||||||
Lỗ tụng 魯頌 | 1 | Quynh | |||||||
2 | Hữu Tất | ||||||||
3 | Phán thủy | ||||||||
4 | Bí cung | ||||||||
Thương tụng 商頌 | 1 | Na | |||||||
2 | Liệt tổ | ||||||||
3 | Huyền điểu | ||||||||
4 | Trường phát | ||||||||
5 | Ân vũ |
- ▲ Bản mẫu:Harvnb
- ▲ Bản mẫu:Harvnb
- ▲ Còn gọi là Thái Thúc, em trai của Trịnh Trang Công
- ▲ Trăn và Vĩ là tên hai con sông ở tỉnh Hà Nam, hợp lưu với sông Bạc, Phong tục nước Trịnh, cứ đến tiết thanh minh trai gái kéo nhau ra hạ lưu Trăn Vĩ để vui chơi, tặng hoa cho nhau
- ▲ Bản mẫu:Harvnb
- ▲ 6,0 6,1 Bản mẫu:Harvnb
- ▲ Cũng đọc là Kiêm hà
- ▲ Bản mẫu:Harvnb