Ki tô giáo

Ki tô giáo thuộc tôn giáo nhất thần thuộc nhóm Tôn giáo Abrahamm đặt nền tảng trên các lời giáo huấn của Giê su ; Jesus thành Nazareth . Kitô giáo đóng một vai trò quan trọng trong nền văn hóa phương Tây.Kitô giáo bao gồm nhiều truyền thống tôn giáo với các dị biệt văn hóa, cũng như các xác tín và hệ phái khác nhau. Trải qua hai thiên niên kỷ, Kitô giáo tự hình thành nên ba nhánh chính là Công giáo La mã, Chính thống giáo Đông phương và Tin Lành. Tính chung, đây là tôn giáo lớn nhất với 2,2 tỉ tín hữu, chiếm khoảng 32% dân số thế giới.
Kitô hữu (Cơ Đốc nhân) tin rằng Giêsu là con của Thiên Chúa và là Đấng Messiah của người Do Thái như đã được tiên báo trong Cựu Ước (còn gọi là kinh thánh Do Thái hoặc Tanakh). Ngài đã chịu đau khổ, bị đóng đinh, và sau ba ngày sống lại từ cõi chết, cứu rỗi nhân loại. Hầu hết Kitô hữu tin rằng chỉ có một Thiên Chúa duy nhất hiện hữu trong 3 thân vị (tiếng Hy Lạp: hypostasis) gọi là Chúa Ba Ngôi.- Chúa cha, Chúa con và Chúa thánh linh
Giê su
[sửa]Sinh ra
[sửa]
Theo Phúc âm Luca và Mátthêu, Giê-su được Maria là vợ bác thợ mộc Giuse, sinh ra ở Bethlehem xứ Judea. Giê-su được sinh ra và đặt nằm trong một máng cỏ vì bà Maria và ông Giuse không tìm được chỗ trọ qua đêm khi đang cùng đoàn người du hành đến Bethlehem. Các thiên sứ loan tin rằng người này sẽ là Đấng cứu thế, và các mục đồng đến chiêm bái. Các nhà thông thái đã theo hướng một ngôi sao để đến Bethlehem và dâng tặng những phẩm vật lên Chúa hài đồng, vì người sinh ra để làm vua của người Do Thái.
Hêrôđê âm mưu dùng các nhà thông thái để tìm ra Giêsu thất bại nên đã quyết định tàn sát tất cả các con trẻ ở Bethlehem để tiêu diệt Giêsu bằng được, nhưng gia đình Giêsu đã kịp chạy trốn đến Ai Cập và sau đó định cư tại Nazareth và chỉ trở về sau khi vua Hêrôđê băng hà tại Giêricô.
Giêsu trải qua thời niên thiếu tại làng Nazareth thuộc xứ Galilea. Chỉ có một sự kiện xảy ra trong thời gian này được ghi lại là khi cậu bé Giêsu theo gia đình lên Jerusalem trong một chuyến hành hương. Bị thất lạc khỏi cha mẹ, cuối cùng cậu bé Giêsu 12 tuổi được tìm thấy trong Đền thờ Jerusalem, đang tranh luận với các học giả Do Thái giáo.
Rửa tội và bị cám dỗ
[sửa]Sự kiện Giê-su chịu báp têm (phép rửa) bởi Giăng Báp-tít (Gioan Tẩy giả), được các học giả Kinh Thánh xem là điểm khởi đầu thánh chức của ngài trên đất. Giê-su đến sông Jordan, nơi Giăng Báp-tít vẫn giảng dạy và làm báp têm cho đám đông. Giăng Báp-tít khởi sự giảng dạy vào năm thứ 15 đời Tiberius Ceasar (khoảng năm 28 CN.), và Giê-su chịu lễ báp têm lúc ngài khoảng ba mươi tuổi.
Sau khi chịu lễ báp têm, Chúa Thánh Linh đưa Giê-su vào hoang mạc, ở đó ngài kiêng ăn trong bốn mươi ngày đêm. Ma quỷ hiện ra và cám dỗ Giê-su bày tỏ quyền năng siêu nhiên để chứng minh ngài chính là Thiên Chúa, nhưng ngài đã khước từ và thắng sự cám dỗ của ma quỷ bằng cách trưng dẫn lời Kinh Thánh từ sách Phục truyền Luật lệ ký (Đệ nhị Luật). Cả thảy, ma quỷ tìm đến cám dỗ ngài ba lần. Các sách Phúc âm thuật lại rằng, sau khi chịu thất bại, ma quỷ bỏ đi và các thiên sứ đến để hầu việc Giê-su.
Thi hành Thánh chức
[sửa]Theo các sách Phúc âm, Giê-su là Đấng Messiah, "Con Thiên Chúa" . Ngài đến để "phó mạng sống mình làm giá chuộc nhiều người" và "giảng tin mừng của Nước Trời".
Giê-su đi khắp nhiều nơi để rao giảng tin lành và làm nhiều phép lạ như chữa bệnh, đuổi quỷ, đi trên mặt nước, hóa nước thành rượu, và khiến kẻ chết sống lại như trong câu chuyện của Lazarus. Phúc âm Giăng ghi nhận ba kỳ lễ Vượt qua trong thời gian Giê-su thi hành thánh chức. Điều này ngụ ý thời gian Giê-su rao giảng Phúc âm kéo dài ba năm. Mặc dù có nhiều môn đồ, Giê-su rất gần gũi với Mười hai Sứ đồ. Có những đám đông khổng lồ lên đến hàng ngàn người tìm đến nghe ngài giảng dạy. Dù không được tôn trọng ở quê nhà, và ở Perea (thuộc phía tây sông Jordan), ngài được đặc biệt trọng vọng trong xứ Galilee (phía bắc Israel).
Một trong những bài thuyết giáo nổi tiếng nhất của Giê-su là Bài giảng trên núi, trong đó có Các Phước Lành và bài Cầu nguyện chung (Kinh Lạy Cha). Giê-su khuyên bảo tránh xa sự giận dữ, dâm dục, chớ ly dị, thề nguyền và báo thù , tôn trọng và tuân giữ Luật pháp Moses.
Giê-su thường dùng dụ ngôn khi giảng dạy, như chuyện kể về Người con trai hoang đàng (Lu-ca 15: 11-32),[19] và câu chuyện Người gieo giống. Giáo huấn của ngài tập chú vào tình yêu vô điều kiện và thấm nhuần tinh thần hi sinh đối với Thiên Chúa và đối với mọi người. Giê-su cũng dạy về tinh thần phục vụ và đức khiêm nhường cũng như lòng bao dung khoan thứ, sống hòa bình, đức tin, và ơn thừa hưởng sự sống vĩnh cửu trong "Vương quốc Thiên Chúa". Giê-su loan báo những sự kiện sẽ xảy ra, và tiên báo về sự tận cùng của thế giới, là điều sẽ đến cách bất ngờ; do đó, nhắc nhở những người theo ngài hãy luôn tỉnh thức và trung tín trong đức tin.
Trong giáo huấn của Giê-su có những điều xem ra là nghịch lý đối với thế gian nhưng phù hợp với lẽ công bình của Thiên Chúa như lời cảnh báo "kẻ đầu sẽ nên rốt, và rốt sẽ nên đầu" cũng như lời dặn dò "Ai muốn cứu sự sống mình thì sẽ mất, còn ai vì cớ ta mà mất sự sống thì sẽ được lại" (Matt. 16: 25) và lời khuyên hãy lấy tình yêu thương và lòng hiếu hòa mà đáp trả bạo lực.
Giê-su hứa ban sự bình an cho những người tin ngài, và giải quyết mọi nan đề họ đối diện trong cuộc sống song Giê-su cũng cảnh báo rằng sẽ có sự phân rẽ khiến các thành viên trong gia đình chống nghịch nhau (vì bất đồng về niềm tin).
Xứ Judaea và Xứ Galilee trong thời Giê-su
[sửa]Giê-su thường tranh luận với giới lãnh đạo tôn giáo của dân Do Thái. Ngài bất đồng với người Sadducee vì họ không tin vào sự sống lại của người chết. Mối quan hệ giữa Giê-su và người Pharisee còn phức tạp hơn. Mặc dù thường quở trách người Pharisee là đạo đức giả, Giê-su vẫn mở ra cho họ cơ hội tiếp cận với giáo huấn của ngài bằng cách cùng ăn tối với họ, giảng dạy tại các hội đường, và xem một số người Pharisee như Nicodemus là môn đồ.
Giê-su sống gần gũi với những người bị xã hội khinh rẻ như giới thu thuế (nhân viên thuế vụ của Đế chế La Mã, thường bị khinh miệt vì lợi dụng chức quyền để nhũng nhiễu), trong đó có Matthew (về sau là một trong Mười hai Sứ đồ); khi người Pharisee chỉ trích Giê-su vì thường tiếp xúc với kẻ tội lỗi, Giê-su đáp lại rằng chỉ có người bệnh mới cần đến thầy thuốc, không phải người khỏe mạnh hoặc tưởng mình là khỏe mạnh,"Hãy đi và học cho biết câu này nghĩa là gì: Ta muốn sự thương xót, nhưng chẳng muốn của tế lễ. Vì ta đến đây không phải để kêu kẻ công bình, song kêu kẻ có tội". (Matt. 9: 13). Theo Lu-ca và Giăng, Giê-su tìm đến để rao giảng phúc âm cho cộng đồng Samaria (những người theo một hình thức biến dị của Do Thái giáo và bị người Do Thái xem là tà giáo) cạnh giếng Jacob tại Sychar
Bốn sách Phúc âm đều thuật lại sự kiện Giê-su được chào đón vinh hiển khi vào thành Jerusalem. Ấy là trong kỳ lễ Vượt qua (15 Nisan; vào mùa xuân) theo Phúc âm Giăng, họ hô vang Hosanna để chúc tụng Chúa là Đấng Messiah.
Bị bắt và xét xử
[sửa]Câu chuyện Giê-su vào Đền thờ Jerusalem được ký thuật trong ba sách Phúc âm đồng quan,[32][33][34] và trong Phúc âm Giăng.[35] Giêsu cùng các môn đồ lên thành Jerusalem vào dịp Lễ Vượt Qua (Passover) . Khi bước vào Đền thờ, Giê-su nhìn thấy trong sân đầy những thú nuôi dùng để dâng tế lễ, và bàn của những người đổi bạc. Họ đổi tiền đang lưu hành sang những đồng nửa shekel, loại tiền đồng dùng trong nghi thức đền thờ. Giê-su đánh đuổi thú nuôi, hất đổ những bàn đổi tiền và nói Nhà ta sẽ là nhà cầu nguyện; song các ngươi biến thành hang trộm cươp (Matthew 21: 13; Mark 11: 17; Lu-ca 19: 46).
Giê-su dùng bữa cùng các môn đồ, gọi là Tiệc Ly, rồi đến Vườn Gethsemane để cầu nguyện. Trong bữa tiệc ly, Giê-su bẻ bánh, dâng lời tạ ơn, đưa bánh cho các môn đồ mà nói rằng "Nầy là thân thể ta"; Rồi lấy chén, tạ ơn, đưa cho các môn đồ mà nói rằng "Hết thảy hãy uống đi; vì này là huyết ta, huyết của sự giao ước đã đổ ra cho nhiều người được tha tội". Sau cùng, ngài căn dặn môn đồ: "Hãy làm điều này để nhớ đến ta".
Khi đang ở trong vườn Gethsemane, lính La Mã tìm đến vây bắt Giê-su theo lệnh của Tòa Công luận (Sanhedrin) và thầy thượng tế Caiaphas (về sau được nhắc đến trong Matthew 26: 65-67[36]). Nhà chức trách quyết định bắt giữ Giê-su vì xem ngài là mối đe dọa cho quyền lực của họ, vì cách thức Chúa dùng để diễn giải Kinh Thánh và vì Chúa thường vạch trần sự giả trá của họ trong đời sống tôn giáo.
Họ tìm cách bắt Giê-su vào ban đêm hầu tránh bùng nổ bạo loạn vì ngài được dân chúng yêu mến. Một trong các sứ đồ, phản bội Giê-su bằng cách ôm hôn ngài để giúp binh lính có thể nhận diện ngài trong bóng đêm. Một môn đồ, Peter (Phêrô hoặc Phi-e-rơ) dùng gươm tấn công những kẻ đến bắt giữ Giê-su, chém đứt tai một người, nhưng theo Phúc âm Luca, Giê-su chữa lành cho người ấy.[38] Ngài quay sang quở trách Peter rằng "Hãy nạp gươm vào vỏ; vì hễ ai cầm gươm sẽ bị chết vì gươm" (Matthew 26: 52).
Sau khi Giê-su bị bắt, các môn đồ tản lạc nhiều nơi để ẩn trốn. Thầy Thượng tế và các trưởng lão tra hỏi Giê-su "Ngươi là Con Thiên Chúa sao?"; ngài đáp: "Chính các người nói ta là Con Ngài" (Lu-ca 22: 70-71). Giê-su bị Tòa công luận buộc tội phạm thượng. Thầy Thượng tế giao ngài cho Tổng đốc La Mã Pontius Pilate với cáo buộc phản loạn vì cho rằng Giê-su tự nhận mình là Vua dân Do Thái.Dưới áp lực của giới lãnh đạo tôn giáo Do Thái, Tổng đốc Pontius Pilatus (Philatô) miễn cưỡng ra lệnh đóng đinh Giêsu treo trên thập tự gi
Chết trên thập tự giá
[sửa]
Khi Pilate hỏi Giê-su "Có phải ngươi là Vua của dân Do Thái không?", ngài trả lời: "Thật như lời ngươi nói". Theo các sách phúc âm, Pilate nhận biết Giê-su không phạm tội gì chống nghịch chính quyền La Mã, vì vậy theo tập tục, vào dịp lễ Vượt qua tổng đốc La Mã sẽ phóng thích một tù nhân, Pilate yêu cầu đám đông chọn giữa Giê-su người Nazareth và một kẻ phiến loạn tên Barabbas.
Đám đông, theo sự xúi giục của giới lãnh đạo Do Thái, muốn Barabbas được tha và Giê-su bị đóng đinh. Theo phúc âm Mátthêu, Pilate rửa tay mình để bày tỏ rằng ông vô tội trong quyết định này. Pilate, vì cố xoa dịu cơn phẫn nộ của đám đông, cho đánh đòn Giê-su. Song đám đông tiếp tục đòi hỏi Giê-su phải bị đóng đinh. Trong cơn cuồng nộ, họ gào thét, "Hãy đóng đinh hắn trên cây thập tự," và khẳng định trách nhiệm của họ về cái chết của Giê-su, "Huyết nó sẽ đổ lại trên chúng tôi và con cái chúng tôi!". Cuối cùng Pilate chịu nhượng bộ. Những người lính La Mã đan một mão bằng gai và đặt trên đầu ngài, rồi quỳ xuống mà chế giễu "Mừng Vua dân Do Thái".
Bốn sách Phúc âm thuật lại Pilate ra lệnh đóng đinh Giê-su với tấm bảng treo trên đầu cây thập tự viết rằng "Người này là Giê-su, Vua dân Do Thái". Buộc phải vác thập tự giá lên đồi Golgotha, nơi ngài bị đóng đinh. Theo Phúc âm Luca, khi bị treo trên cây thập tự, Giê-su cầu nguyện: "Lạy Cha, xin tha cho họ; vì họ không biết mình làm điều gì" (Luca 23. 34). Nhiều người đi qua nhiếc móc Giê-su và có kẻ cho uống giấm khi nghe Giê-su kêu khát. Theo Phúc âm Giăng, Mary và những phụ nữ khác đến bên chân thập tự giá. Khi thấy Giê-su đã chết, một người lính La Mã dùng giáo đâm vào hông để kiểm tra, tức thì máu và nước chảy ra.
Theo bốn sách phúc âm, Giê-su trút hơi thở cuối cùng trước khi trời tối, Joseph người Arimathea, một người Do Thái giàu có và là thành viên Tòa Công luận, đến gặp Pilate để xin an táng Giê-su, ông đặt xác trong một ngôi mộ. Theo ký thuật của Giăng, Nicodemus, người được nhắc đến trong những phần khác của Phúc âm Giăng, tìm đến cùng Joseph lo việc an táng. Các sách Phúc âm đồng quan đều thuật lại hiện tượng động đất và bầu trời tối sầm từ mười hai giờ trưa đến ba giờ chiều.
Phục sinh và Lên Trời
[sửa]
Giê-su sống lại từ kẻ chết sau ba ngày kể từ khi bị đóng đinh trên cây thập tự. Một thiên sứ hiện ra bên ngôi mộ và báo tin sự sống lại của Giê-su cho những phụ nữ khi họ đến xức xác theo tục lệ. Quang cảnh hiện ra của thiên sứ đã làm các lính canh hôn mê. Trước đó, thầy thượng tế và người Pharisêu xin Pilate cho lính đến gác mộ vì họ tin rằng các môn đồ sẽ tìm cách cướp xác.
Vào buổi sáng phục sinh, Giê-su hiện ra với Mary Magdalene. Khi Mary nhìn vào ngôi mộ, hai thiên sứ hỏi bà tại sao khóc; và khi bà nhìn quanh, thấy Giê-su nhưng không nhận ra cho đến khi ngài gọi bà.
Giê-su hiện ra cho nhiều người tại nhiều địa điểm khác nhau trong suốt bốn mươi ngày. Sau khi sống lại, Giê-su đến với hai người khách bộ hành đang trên đường đến thành Emmaus. Khi các môn đồ nhóm lại, Giê-su hiện ra với họ ngay buổi chiều phục sinh. Thư Corinthian thứ nhất, Phúc âm cho người Hebrew, và một số tư liệu cổ khác đều đề cập đến việc hiện ra cho James (Giacôbe hoặc Gia-cơ).
Chúa Giêsu đã gặp lại các môn đệ tại các nơi khác nhau trong suốt bốn mươi ngày sau khi sống lại, và sau đó về trời từ núi Ôliu (nay là Lễ Thăng Thiên). Ngày thứ 50 kể từ sau sự kiện Phục sinh, Chúa Thánh Thần hiện xuống với các tông đồ và loan báo tin mừng, theo Tân Ước, ngày này cũng được xem là ngày khai sinh ra Giáo hội Công giáo.
Lịch sử hình thành và phát triển Ki tô giáo
[sửa]Công giáo là tôn giáo nhất thần ra đời ở các tỉnh phía Đông đế quốc La Mã cổ đại. Chúa Giêsu, người sáng lập ra tôn giáo này là người thuộc dân tộc Do Thái. Theo truyền thuyết cha của Người tên là Giu Se, làm nghề thợ mộc và là cha nuôi. Còn mẹ của Người tên là Maria đồng trinh, mang thai ông một cách mầu nhiệm. Ông sinh ra vào đầu Công nguyên ở vùng đất Bêlem, thuộc xứ Giuđêa (thuộc nước Palestin). Ông sống ở đầu thế kỷ thứ I sau công nguyên. Từ nhỏ ông là một người thông minh, học chữ Do Thái và theo đạo Do Thái. Năm 12 tuổi ông mới theo cha tới đất Thánh Giêrusalem. Năm khoảng 30 tuổi ông mới bắt đầu truyền đạo.
Trong quá trình sáng lập và truyền đạo ông thu nhận khoảng 70 người làm các môn đệ của mình, trong đó có 12 môn đệ gần gũi nhất. Những môn đệ thân tín, gần gũi được ông đào tạo thành các Thánh Tông đồ và cử Phêrô làm tông đồ trưởng. Trong thời gian ngắn ngủi (3 năm), ông vừa chữa bệnh, làm các phép lạ vừa truyền bá những tư tưởng về tôn giáo mới của mình. Bằng sự hy sinh, quả cảm và lòng nhân ái của mình, ông đã thu hút và tập hợp được một lực lượng quần chúng đông đảo để hình thành cộng đoàn Công giáo đầu tiên trên thế giới.
Tuy nhiên, trong quá trình truyền giáo, ông luôn bị những người Do Thái đả kích, phê phán và ghen ghét. Hơn thế nữa ông còn bị nhà cầm quyền đương thời ngăn cản, cấm cách và kết tội mưu phản La Mã, kết án tử hình bằng cách đóng đinh trên giá chữ thập. Ông chết khi còn rất trẻ, năm 33 tuổi.
Công giáo ra đời đầu Công nguyên, gắn liền với thời kỳ của Nhà nước đế quốc La Mã cổ đại, gắn liền với Nhà nước chiếm hữu nô lệ và phương thức sản xuất nô lệ. Từ thế kỷ thứ II, III, TCN ở Châu Âu, Nhà nước chiếm hữu nô lệ La Mã sau khi hình thành đã liên tiếp mở các cuộc viễn chinh xâm lược. Đến đầu Công nguyên, La Mã trở thành một đế quốc hùng mạnh với một lãnh thổ rộng lớn ven Địa Trung hải, trải dài từ Tây sang Đông bao gồm bán đảo Italia và các nước vùng Địa Trung hải (nằm ở 3 Châu lục: 1 phần của Châu Âu, 1 phần của Tây Á và 1 phần của Bắc Phi).
Đây chính là giai đoạn phát triển cực thịnh của Nhà nước đế quốc La Mã Cổ đại, một Nhà nước đế chế được thiết lập bằng chiến tranh xâm lược và dựa chủ yếu vào lao động của chủ nô. Sự hà khắc của chế độ chiếm hữu nô lệ, sự bất công, bóc lột nặng nề đã đẩy quần chúng lao động đến chỗ cùng cực và những khát vọng giải phóng, tự do, an ủi đã trở thành môi trường lý tưởng cho Công giáo ra đời.
Tuy nhiên, ngay trong lòng đế chế La Mã hùng mạnh đó cũng đã xuất hiện các mâu thuẫn và rạn nứt. Đó là mâu thuẫn cơ bản giữa chủ nô và nô lệ, giữa dân tộc bị chinh phục với kẻ xâm lược. Đó còn là mâu thuẫn giữa Nhà nước trung ương tập quyền với cơ quan thống trị hàng tỉnh... Những mâu thuẫn và xung đột nói trên đã bùng nổ thành các cuộc khởi nghĩa vũ trang chống lại giai cấp chủ nô và quân xâm lược, không chỉ ở vùng đất bị chinh phục mà còn ngay cả chính quốc (điển hình là cuộc khởi nghĩa của nô lệ do Spác ta quýt lãnh đạo thế kỷ I TCN). Tuy vậy, đế quốc La Mã còn rất hùng mạnh và đã nhanh chóng đàn áp một cách dã man tàn khốc những cuộc khởi nghĩa đó. Trong tâm trạng mệt mỏi và tuyệt vọng, quần chúng bị áp bức trông chờ vào sự giúp đỡ của một đấng cứu thế xuất hiện để đánh đổ đế quốc La Mã, giải phóng họ và xây dựng một vương quốc của sự công bằng. Công giáo ra đời trong hoàn cảnh như vậy. Nhà sử học Pháp Sác lơ Ang sen có lý chí khẳng định “Chúa Ki tô đã thắng vì Spac ta quýt đã thất bại”.
Palestin là vùng đất phía Đông Địa Trung Hải, nơi tiếp giáp với 3 Châu lục: Châu Âu, Châu Á và Châu Phi. Đây chính là nơi giao lưu, tiếp biến giữa những nền văn hóa lớn. Hơn thế nữa nơi Công giáo ra đời không chỉ là cái nôi văn minh của thế giới Cổ đại mà còn là một địa danh đặc biệt, đất thánh của 3 tôn giáo thế giới là Do Thái giáo, Công giáo và Islam giáo.
Khoảng hơn 1000 năm trước Công nguyên, quốc gia Do Thái được thành lập theo chế độ quân chủ - chủ nô với vị vua nổi tiếng của mình là Đa vít. Kể từ đó quốc gia này trải qua nhiều thăng trầm của lịch sử, nhiều lần hưng thịnh và không ít suy vong. Đặc biệt vào thế kỷ thứ VI trước Công nguyên, quốc gia này bị nhiều nước tấn công, xâu xé. Mỗi lần như vậy người Do Thái phải lưu tán, chạy sang các nước khác lánh nạn. Cùng với quá trình ra đời của quốc gia Do Thái, đạo Do Thái được hình thành. Trong thân phận bấp bênh, lưu đày của mình, người Do Thái không nguôi nhớ về Tổ quốc và thời kỳ vàng son của dân tộc mình. Các nhà tri thức Do Thái lưu vong đã viết lại cuốn lịch sử dân tộc mình dưới dạng thần thoại và cuốn sách đó đã trở thành Kinh Thánh của đạo Do Thái. Đạo Do Thái được xây dựng trên cơ sở nhất thần giáo khá hoàn chỉnh và trở thành một trong những tiền đề tư tưởng lý luận cho nền thần học Ki tô nói chung, Công giáo nói riêng sau này.
Có thể thấy rằng nội dung giáo lý cơ bản của đạo Công giáo được giữ nguyên hoặc phát triển từ những tín điều của đạo Do Thái có trước đó hàng ngàn năm. Công giáo ra đời chủ yếu dựa trên cơ sở thần học Do Thái, đó là các quan điểm về lịch sử sáng thế, sự màu nhiệm của Đức Chúa trời, tội tổ tông truyền, linh hồn và thể xác, thiên thần và ma quỉ, thiên đàng và hỏa ngục, thế giới vĩnh hằng ở bên kia...
Đạo Công giáo ra đời còn dựa trên một tiền đề tư tưởng lý luận khác đó là triết học Hy Lạp, La Mã Cổ đại (đặc biệt là triết học Khắc Kỷ với hai đại biểu điển hình là Phi lông và Sê nếch).
Sê nếch là người La Mã (4 - 65 SCN). Ông là người sáng lập ra chủ nghĩa Khắc Kỷ, có nhiều tư tưởng đáng chú ý trong triết học Khắc Kỷ mà sau này Công giáo kế thừa, sử dụng như
- Thân xác con người chỉ là gánh nặng của tâm hồn; cuộc đời nơi trần thế chỉ là giả dối; hạnh phúc và bình đẳng chỉ có ở thế giới bên kia; ông khuyên con người từ bỏ những lạc thú ở đời, khuyên con người sống đạo đức, thanh đạm; khuyên con người phục tùng số mệnh, tin và phục tùng thượng đế...
Phi lông là người Hy Lạp gốc Do Thái (25 năm TCN - 50 năm SCN). Tư tưởng căn bản trong triết học của ông là
- Con người chính là thủ phạm gây ra sự suy đồi đạo đức và các tệ nạn xã hội; ông chủ trương con người phải sám hối không ngừng; kêu gọi con người phải sống nhẫn nhục và khuyên con người hãy chờ đợi sự xuất hiện của đấng cứu thế...
Với những đóng góp to lớn của Sê nếch và Phi lông trong việc tạo ra những tiền đề tư tưởng lý luận trực tiếp cho sự ra đời của đạo Công giáo, hai ông được Ăng ghen đánh giá là người “cha” và người “chú” của đạo Ki tô.
Ngoài ra, để xây dựng một giáo thuyết hoàn chỉnh công giáo còn sử dụng nhiều yếu tố của tín ngưỡng, tôn giáo và phong tục tập quán của các dân tộc vùng Trung Cận Đông. Chẳng hạn hình ảnh Chúa Giê su được xây dựng từ rất nhiều phẩm chất thiêng liêng của các vị thần và anh hùng dân tộc như: Thần Josuah (thần bộ lạc Ephraien) đã hy sinh để cứu bộ lạc mình . Thần Hurulé trên núi Octa được xem là con Thượng đế xuống trần chịu chết để đem lại hòa bình . Thần Alonis chết đi sống lại . Người anh hùng của dân tộc Do Thái Yahve bị đóng đinh trên cây thập giá; Chúa Giê su được sinh ra từ một nữ đồng trinh theo mô típ Persée được sinh ra từ Dionyo và Horus; phép Thánh Thể của Công giáo rất gần gũi với nghi lễ thiêu sinh các vật tế thần và chịu ảnh hưởng của tục uống máu của tín ngưỡng Mithra...
Như vậy, Công giáo nói riêng, Ki tô giáo nói chung đã kế thừa có chọn lọc nhiều yếu tố của Do Thái giáo, thần học Đông phương, triết học Khắc Kỷ và tín ngưỡng, tôn giáo bản địa của khu vực Trung Cận Đông để xây dựng học thuyết của mình, một học thuyết nhất thần, phổ cập đáp ứng được sự mong đợi của nhiều dân tộc và của đông đảo quần chúng theo tôn giáo này./.
Hình thành và phát triển
[sửa]Vào thời kỳ ban đầu, Hội thánh bao gồm hai cộng đồng: Do Thái và Hy Lạp. Cộng đồng Do Thái, phần đông là các tín hữu gốc Do Thái, muốn duy trì một số tập tục và nghi thức của Do Thái giáo (Judaism) như phép cắt bì và một số kiêng . Cộng đồng Hy Lạp, những người chịu ảnh hưởng từ thế giới nói tiếng Hy Lạp, tin rằng thông điệp của Kitô giáo nên được truyền bá theo các phương pháp thích hợp hơn với thế giới Hellenistic bên ngoài.
Trong vòng vài thế kỷ đầu tiên, các Giáo Phụ, là các nhà thần học và triết học khoa bảng, như Justinô Tử đạo, Origenes và Augustinus đã phát triển nền thần học và triết học Kitô giáo.Trong suốt ba thế kỷ đầu tiên, Kitô giáo lan truyền nhanh chóng trong khu vực Địa Trung Hải và được truyền bá ra cả bên ngoài Đế quốc La Mã: thông qua Syria tới Armenia, Gruzia, Lưỡng Hà, Ba Tư và Ấn Độ, thông qua Ai Cập đến Libya, Sudan và Ethiopia, thông qua Tiểu Á, Hy Lạp và La Mã đến các vùng khác của Âu châu cũng như tới tây bắc Phi châu
Bách hại
[sửa]Trong khi đang phát triển mạnh mẽ, Hội thánh cũng phải trải qua các cơn bách hại từ quân đội La mã
Ngay từ những ngày đầu tiên, Kitô giáo là mục tiêu của những sự bách hại, dẫn đến sự tử đạo của Stêphanô và Giacôbê, con của Zêbêđê. Những đợt bách hại ở quy mô lớn hơn, dù không thường xuyên nhưng dữ dội, xảy ra dưới thời trị vì của các hoàng đế La Mã như Nero, Valerianus, Diocletianus và Galerius.
Cuộc đời của những người tử đạo, thà chết chứ không chối bỏ đức tin, trở nên biểu trưng cho đức hạnh cao quý nhất. Các bản dịch Kinh Thánh sớm nhất bắt đầu xuất hiện, danh sách quy điển Tân Ước được đồng thuận. Hệ thống phẩm trật được củng cố . các giám mục thành Roma, Alexandria và Antiochia đều được công nhận danh hiệu Trưởng phụ.
Hợp pháp
[sửa]
Hoàng đế La Mã Galerius, trước khi chết, ban chiếu chỉ Galerius ngưng mọi hoạt động bách hại. Hoàng đế Constantinus I gặp thị kiến năm 312 và một năm sau đó ban hành chiếu chỉ Milano hợp pháp hóa Kitô giáo.
Dù vậy, các cuộc bách hại được tái lập dưới triều Julianus Kẻ bội giáo (361-363), người muốn phục hồi cựu giáo trên lãnh thổ đế quốc. Tuy nhiên, vào năm 380 dưới triều hoàng đế Theodosius I, Kitô giáo được công nhận làm quốc giáo với chiếu chỉ Thessalonica.
Nhưng tại Đế quốc Ba Tư vốn luôn đối nghịch với Đế quốc La Mã, Kitô hữu phải chịu nhiều áp bức từ Nhà Sassanid muốn củng cố lại địa vị của Hỏa giáo.Tại Đế quốc Ba Tư, vào năm 410 giám mục thành Seleucia-Ctesiphon miền Assyria đã thay thế Thượng phụ thành Antiochia để giữ thẩm quyền cao nhất trong Giáo hội Phương Đông (Cảnh giáo). Trong thời kỳ ly giáo Nestorian, giáo hội này cắt đứt quan hệ với phương Tây. Trong suốt một thiên niên kỷ đã trở thành giáo hội có nhiều ảnh hưởng tại châu Á với các giáo phận được thành lập tại những nơi xa xôi như Trung Á, Ấn Độ, Java và Trung Hoa.
Giáo phái
[sửa]Quan niẹm
[sửa]- Tôn giáo độc thần thuộc nhóm tôn giáo Abraham chỉ thờ duy nhứt một thần đó là Giê Su thành Nazareth
- Tôn giáo tin vào Thiên đườnng và Địa ngục
Giáo quy
[sửa]Mười hai tín điều cơ bản
[sửa]Tín điều là 1 đoạn văn ngắn viết về các giáo lý chủ yếu tạo ra cơ sở cho bất kỳ phong trào tôn giáo nào hay bất kỳ giáo hội nào. Tín điều phải được chấp nhận không điều kiện (không chứng minh).
Đối với Công giáo trong kinh Tín kính có 12 tín điều cơ bản. Trong đó
- 8 tín điều nói về bản chất Thiên Chúa, sự hiện thân của chúa Giêsu và ơn cứu độ,
- 4 tín điều còn lại nói về giáo hội, nhà thờ và cuộc sống vĩnh hằng.
Tín điều căn bản đầu tiên là niềm tin vào Thiên Chúa và sự màu nhiệm của Thiên Chúa. Thiên Chúa có ba ngôi: Đức Chúa Cha, Đức Chúa Con và Đức Chúa Thánh Thần nhưng cùng một bản thể. Ba ngôi “đồng vinh, đồng đẳng, đồng quyền” nhưng có chức năng và vai trò khác nhau. Cha – tạo dựng, Con – cứu chuộc, Thánh thần – thánh hoá….
Bảy phép bí tích
[sửa]Phép Bí tích: Một nghi lễ của Kitô giáo, theo đó ơn Chúa sẽ được đem đến cho các tín đồ.
Trong các nghi lễ, phép bí tích là quan trọng nhất, thể hiện mối quan hệ giao tiếp giữa con người với Chúa. Có 7 bí tích:
1. Bí tích rửa tội: nhằm xóa tội tổ tông và các tội bản thân. Hình thức là lấy nước lã đổ lên đầu kẻ lãnh bí tích rửa tội và đọc “(tên thánh) tôi rửa tội nhân danh cha, con và thánh thần” còn kẻ lãnh bí tích thề hứa bỏ ma quỷ lánh tội lỗi, tin theo Chúa Kitô giữ lề luật của Người. 2. Bí tích thêm sức : để củng cố đức tin kính Chúa 3. Bí tích thánh thể: ăn bánh thánh, uống rượu nho với ý nghĩa đó là mình và máu của Chúa Giêsu để được tha tội. 4. Bí tích giải tội: dành cho người sám hối tội lỗi. 5. Bí tích truyền chức thánh: chỉ dành cho giám mục và linh mục đã được tuyển chọn để họ có quyền tế lễ chăn dắt dân chúa. 6. Bí tích hôn phối: là bí tích kết hợp hai tín hữu 1 nam, 1 nữ thành vợ chồng trước mặt Chúa. 7. Bí tích xức dầu bệnh nhân: là bí tích nâng đỡ bệnh nhân về phần hồn và phần xác, giúp tín đồ chịu đựng đau khổ, dọn mình trước cái chết.
Mười điều răn của Chúa
[sửa]1. Phải thờ kính Thiên Chúa trên hết mọi sự.
2. Không được lấy danh Thiên Chúa để làm những việc phàm tục, tầm thường.
3. Dành ngày Chúa Nhật để thờ phụng Thiên Chúa
4. Thảo kính cha mẹ.
5. Không được giết người.
6. Không được dâm dục.
7. Không được tham lam lấy của người khác
8. Không được làm chứng dối, che dấu sự giả dối.
9. Không được ham muốn vợ (hoặc chồng) người khác.
10. Không được ham muốn của cải trái lẽ.
Sáu điều răn của Hội Thánh
[sửa]1. Xem lễ ngày Chúa Nhật và ngày lễ buộc.
2. Kiêng việc xác ngày Chúa Nhật.
3. Xưng tội một năm một lần.
4. Chịu lễ ngày phục sinh.
5. Giữ chay những ngày quy định.
6. Kiêng ăn thịt những ngày quy định.

Kinh thánh theo quan niệm của giáo hội là “lời Chúa truyền dạy đời đời” là một bộ sách gồm 73 quyển được chia làm 2 bộ Tân ước và Cựu ước. Ban đầu Kinh thánh được truyền khẩu trong dân gian. Đến thế kỷ II thì bắt đầu được viết trên da dê, từ thế kỷ IV – VI được viết trên giấy Papêrút và đến thế kỷ VII mới viết thành sách.
Kinh thánh là một kho tàng lịch sử và điển tích văn học. Trong Kinh thánh bao gồm toàn bộ toàn bộ quan điểm, tư tưởng của giáo lý và tín điều của các đạo Kitô. Tùy theo đạo mà số kinh này được chấp nhận theo yêu cầu của giáo lý các đạo. Ví dụ Đạo Chính thống chú trọng 5 cuốn đầu tiên của Kinh Cựu ước. Đạo Tin Lành lại lấy 4 cuốn Kinh Phúc âm làm giáo nghĩa cơ bản….
Kinh thánh Cựu ước
[sửa]Có 46 cuốn. Kể về những chuyện trước khi Chúa Giê su ra đời được chia làm 4 tập.
- Tập 1: Bao gồm 5 cuốn đầu tiên (Ngũ kinh) gồm Sáng thế ký, Xuất hành ký, Lê vi ký, Dân số ký, và Thân mệnh ký.
- Tập 2: là bộ sử thư gồm 16 cuốn.
- Tập 3:gồm 7 cuốn là những thi ca Triết học.
- Tập 4: gồm 14 cuốn sách Tiên tri.
Kinh thánh Tân ước
[sửa]Có 27 cuốn chia làm 4 tập.
- Tập 1: có 4 quyển sách nổi tiếng gọi là sách Phúc âm. 4 cuốn sách này mô tả cuộc đời của Chúa Giêsu, nhất là 3 năm ông đi truyền đạo.
- Tập 2: bao gồm 15 cuốn nói về Công vụ tông đồ. Ghi lại các tông đồ làm việc như thế nào khi Chúa về trời.
- Tập 3: có 7 cuốn. Nói về hoạt động của 3 tông đồ giỏi nhất.
- Tập 4: có tên là Khải huyền thư. Ghi lại việc con người không nghe lời nên bị Chúa trừng phạt
- Lễ Giáng Sinh, còn được gọi là lễ Thiên Chúa giáng sinh, Noel hay Christmas (đôi khi là Xmas) là một ngày lễ kỷ niệm Giêsu được sinh ra . Ngày lễ giáng sinh được cử hành chính thức vào ngày 25 tháng 12 nhưng thường được mừng từ tối ngày 24 tháng 12 bởi theo lịch Do Thái,
- Lễ Phục Sinh thường được xem là một trong những ngày lễ quan trọng nhất trong năm của người theo Kitô giáo. Thường diễn ra vào tháng 3 hoặc tháng 4 mỗi năm để tưởng niệm sự kiện chết và phục sinh của Giê-su từ cõi chết sau khi bị đóng đinh trên thập tự giá.
- Thanh Tẩy (hay còn gọi là rửa tội hoặc báp têm phiên âm từ tiếng Pháp: baptême) là nghi thức được thực hành với nước trong các tôn giáo như Kitô giáo (Cơ Đốc giáo), đạo Mandae, đạo Mormon, đạo Sikh và một số giáo phái của Do Thái giáo.