Bước tới nội dung

Do Thái giáo

Tủ sách mở Wikibooks

Đạo Do Thái giáo có nguồn gốc từ Trung Đông trong khoảng Thời đại đồ đồng. Do Thái giáo (tiếng Hebrew: יהודה, Yehudah, "Judah" theo tiếng Latin và tiếng Hy Lạp) là một tôn giáo độc thần cổ đại thuộc nhóm các Tôn giáo khởi nguồn từ Abraham . Đạo Do Thái giáo trong quan điểm của những người Do Thái sùng đạo thì tôn giáo này có mối quan hệ giao ước giữa Người Do thái (cổ đại) với Thiên Chúa qua Moses

Nhiều phương diện của Do Thái giáo ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp tới các khái niệm về đạo đức và luật dân sự của các nước phương Tây. Nền văn minh Hebrew cũng là một yếu tố quan trọng trong sự phát triển nền văn minh phương Tây như Hê-lê-ni-sơ và Do Thái giáo như là một tôn giáo mẹ đẻ của Ki-tô giáo, đã tạo ra các lý tưởng và đạo đức phương Tây từ Kỷ nguyên Ki tô giáo.

Moses

[sửa]

Moses được mô tả trong Thánh Kinh là một lãnh tụ tôn giáo, người công bố luật pháp, nhà tiên tri đầu tiên của Do Thái giáo. Ông được xem là người viết Kinh Torah (năm sách đầu tiên của Kinh Thánh Hebrew, còn gọi là Ngũ thư Kinh Thánh hay Ngũ kinh Moses) trong quãng thời gian 40 năm trong sa mạc. Moses còn được coi là một thiên tài quân sự và là một vị anh hùng dân tộc của người Do Thái. Buổi đầu sự nghiệp của ông khá giống với vua Cyrus Đại Đế – vị Hoàng đế khởi lập Đế quốc Ba Tư. Ông cùng với vua Cyrus Đại Đế đều đóng vai trò vô cùng lớn lao trong lịch sử của dân tộc mình.

Theo ký thuật của Kinh Thánh, Moses là con của một phụ nữ Hebrew. Khi nhận biết đứa bé sơ sinh là con trai, bà tìm cách cứu con mình khỏi bị giết theo một chiếu chỉ của Pharaoh ra lệnh tàn sát tất cả bé trai thuộc dân tộc Do thái nô lệ ngay khi chúng vừa chào đời. Cuối cùng, cậu bé Moses được nhận nuôi để trở nên một thành viên của Hoàng gia Ai Cập. Sau khi ra tay giết chết một quản nô Ai Cập để cứu một người Hebrew . Moses buộc phải chạy trốn, rồi trở thành mục tử. Về sau ông được Thiên Chúa kêu gọi trở về Ai Cập với sứ mạng giải phóng dân tộc mình khỏi ách nô lệ, dẫn dắt họ băng qua Hồng Hải, tiến vào hoang mạc và, vì lòng vô tín và sự cứng lòng của dân Israel, ông cùng với họ lưu lạc trong đó suốt 40 năm. Moses không được vào Đất Hứa, ông sống thọ 120 tuổi.

Abraham

[sửa]

Tên ban đầu của ông là Abram (Hê-brơ: אַבְרָם, Tiêu chuẩn: Avram Tibrơ ʾAḇrām) nghĩa là "cha cao quý" hoặc "người cha được tôn kính". Về sau ông được Chúa đổi tên thành Abraham, nghĩa là "cha của nhiều dân tộc". Do vị trí đặc biệt của Abraham trong lịch sử, niềm tin và sách thánh của Do Thái giáo, Ki tô giáoHồi giáo mà ba tôn giáo này thường được gọi chung là các Tôn giáo khởi nguồn từ Abraham

Abraham có vai trò đặc biệt trong Tân Ước, ở đây ông được tôn vinh là anh hùng đức tin. Sứ đồ Phao-lô xem ông là hình mẫu cho giáo lý cứu rỗi bởi đức tin, là tổ phụ của Chúa Ki tô (tức là Đấng Messiah), và khẳng định rằng mọi người có đức tin đều là hậu duệ của Abraham. Abraham có vị trí rất quan trọng đối với Hồi giáo như là một nhà tiên tri . Người Hồi giáo tôn kính Abraham như là một trong những tiên tri quan trọng nhất của Hồi giáo, thường gọi ông là Khalil Ullah, "Bạn của Thiên Chúa". Abraham được xem là một Hanif, nghĩa là người khám phá độc thần giáo.

Trong kinh Torah và kinh Qur’an, Abraham được miêu tả là vị tổ phụ được Thiên Chúa chúc phúc. Tín hữu Do Thái giáo gọi ông là Avraham Avinu, nghĩa là "Abraham, Cha chúng ta". Thiên Chúa dành cho Abraham một lời hứa đặc biệt, ấy là bởi ông mà các dân tộc trong thế gian được hưởng phước . Theo đức tin Cơ Đốc, lời hứa này được ứng nghiệm trong Chúa Cơ Đốc. Đối với người Do Thái giáo, Cơ Đốc giáo và Hồi giáo, Abraham là tổ phụ của dân Israel qua Isaac, con trai ông. Riêng đối với người Hồi giáo, Abraham là một tiên tri của Hồi giáo và là tổ phụ của Muhammad qua Ishmael, một người con trai khác của Abraham.

Abraham được Thiên Chúa kêu gọi rời bỏ quê hương ở thành Ur để đến vùng đất mới Canaan. Hành động này được xem là sự chấp nhận một giao ước với Thiên Chúa. Tôn thờ Yahweh là Thiên Chúa duy nhất của vũ trụ, và nhận lãnh phước hạnh dư dật của Thiên Chúa cho đến đời đời. Cuộc đời của Abraham được ký thuật trong chương 11 – 15 của sách Sáng thế ký trong Cựu Ước. Abraham có 2 người con là IshamelIsaac. Người Hồi giáo xem Ishmael, con trai đầu lòng của Abraham, là tổ phụ của người Ả Rập . và Isaac là tổ phụ của người Do Thái.

Người Hồi giáo tin rằng sinh thời Abraham đã xây cất Kaaba, đền thánh tại Mecca, Kaaba được xây dựng theo sự chỉ dẫn của Thiên Chúa. Họ cũng tin rằng dấu chân của Abraham vẫn còn lưu lại trên một tảng đá trong ngôi đền. Những cuộc hành hương (hajj) được tổ chức hằng năm, một trong những trụ cột của niềm tin Hồi giáo, thu hút hàng triệu người Hồi giáo đi theo bước chân Abraham, Hagar và Ishmael trong cuộc hành trình đến thánh địa Kaaba.

Lịch sử hình thành và phát triển Do Thái giáo

[sửa]

Người Do Thái có nguồn gốc từ người Hebrew cổ đại xuất hiện tại Trung Đông vào 4.000 năm trước. Theo truyền thuyết, người Do Thái và người Ả Rập là con cháu dòng dõi từ Abram (tên lúc sinh của Abraham) là người đã vâng theo lời gọi của Thượng Đế rời bỏ quê hương ở thành Ur thuộc phía Bắc vùng Mesopotamia (Lưỡng Hà) – nay là Đông-Nam Thổ Nhĩ Kỳ, đến lập nghiệp tại xứ Canaan, một vùng đất kéo ngang từ bờ sông Jordan tới biển Địa Trung Hải ngày nay.

khoảng năm 2.000 TCN. Theo Sách Xuất Hành trong Kinh Thánh, Abram cùng gia đình rời bỏ quê hương ở Ur đi đến Harran. Tại đó, Abram đã nhìn thấy Thượng Đế trong giấc mơ và được Người chỉ đường tới vùng đất Canaan. Thượng Đế cũng lập Giao Ước với Abram rằng

Ta là Thiên Chúa toàn năng, và Ta lập Giao Ước với ngươi. Ngươi sẽ là tổ phụ của nhiều dân tộc, và để đánh dấu Giao Ước này, ngươi sẽ đổi tên thành Abraham (có nghĩa là “cha của nhiều dân tộc”). Ta sẽ giữ lời hứa, và xứ Canaan sẽ thuộc về ngươi và dòng dõi của ngươi đời đời; và Ta sẽ là Thiên Chúa của họ.

Xứ Canaan về sau được gọi là Đất Hứa (Promised Land) là vì vậy. Abraham chấp nhận Giao Ước, và nguyện sẽ tôn thờ Thượng Đế – Đức Jehovah – là Thiên Chúa duy nhất của vũ trụ.

Lịch sử của dân tộc Do Thái bắt đầu với câu chuyện của gia đình Abraham như thế. Họ trở thành một thị tộc (clan), rồi phát triển lớn hơn thành một bộ tộc (tribe), và cuối cùng cắm rễ để trở thành một dân tộc (nation) – dân tộc Do Thái.

Do Thái giáo thực sự được hình thành như là một tôn giáo chỉ khi Moses nhận lãnh Mười Điều Răn trên núi Sinai, cùng với hệ thống tư tế và các nghi thức thờ phụng tại Ngôi Đền Jerusalem sau khi dân tộc này được giải cứu khỏi Ai Cập

13 nguyên tắc của đức tin

[sửa]
  1. Thiên Chúa thực hữu.
  2. Thin Chúa là duy nhất và khác biệt với muôn vật.
  3. Thiên Chúa không có thân thể theo vật lý.
  4. Thiên Chúa là vĩnh cửu.
  5. Chỉ cầu nguyện với một mình Thiên Chúa mà thôi.
  6. Lời của các tiên tri là chân thật.
  7. Những lời tiên tri của Moses là chân thật và ông là tiên tri vĩ đại nhất trong số các tiên tri.
  8. Bộ Torah được ghi chép thành văn tự và bộ Torah khẩu truyền (về sau được chép lại thành bộ Talmud) đều do Thiên Chúa phán truyền cho Moses.
  9. Sẽ không có một bộ Torah nào khác hơn là bộ Torah truyền thống.
  10. Thiên Chúa biết hết các tâm tưởng và việc làm của loài người.
  11. Thiên Chúa sẽ thưởng người tốt và phạt người xấu.
  12. Đấng Messiah sẽ đến.
  13. Người chết sẽ được sống lại.

Kinh thánh

[sửa]

Kinh Thánh Do Thái giáo là Kinh thánh Tanakh [תנ״ך;] (cũng viết là Tanach hoặc Tenach) hay Kinh thánh Hebrew

  1. Torah [תורה] mang một trong số các nghĩa: "Luật"; "Lời giảng"; "Giáo huấn". Còn gọi là Chumash [חומש] có nghĩa: "Bộ năm"; "Năm sách của Moses". Đây chính là Ngũ thư ("Pentateuch").
  2. Nevi'im [נביאים] có nghĩa: "Ngôn sứ"
  3. Ketuvim [כתובים;] có nghĩa "Văn chương" ("Hagiographa").

Tanakh còn được gọi là [מקרא;], Mikra hay Miqra.

Y phục

[sửa]
Các chàng trai trẻ người Do Thái đội mũ sợ chúa Kippah

Kippah (tiếng Hebrew: כִּפָּה) (tiếng Việt: Mũ Sợ Chúa) là một chiếc nón không vành, hơi tròn để trùm đầu.

Nón này được đàn ông Do Thái trùm đầu khi cầu nguyện, ăn uống, đọc lời chúc lành hoặc đọc sách thánh, một số người luôn luôn đội nón này bất kể dịp nào. Ở một số cộng đồng Do Thái giáo phi chính thống, một số phụ nữ cũng dùng nón trùm đầu. Kích thước nón cũng rất khác nhau, từ cỡ nhỏ chỉ che được phần gáy đến cỡ lớn có thể trùm nguyên đầu.


Tzitzit (tiếng Hebrew: צִיציִת) là những tua hay quả tua được kết đặc biệt để trang trí vào bốn góc của tallit (tiếng Hebrew: טַלִּית) có nghĩa là "khăn choàng cầu nguyện". Khăn này được dùng trong các buổi cầu nguyện cho cả nam lẫn nữ.

Độ tuổi để choàng khăn có thể khác nhau. Trong cộng đồng Sephardi, trẻ em trai choàng khăn khi lên tuổi 13 (bar mitzvah). Trong một số cộng đồng Ashkenazi, người ta chỉ choàng khăn sau khi kết hôn. Tallit katan (khăn choàng nhỏ) là một dải vải có tua được choàng dưới áo suốt ngày. Một số cộng đồng Do Thái giáo chính thống, khăn có thể choàng tự do phía ngoài áo.

Hai cha con người Do Thái mặc hộp đựng kinh Tefillin trên đầu, người cha Do Thái mặc khăn choàng cầu nguyện tallit (bên trái)


Hộp Đựng Kinh (Tiếng Anh: Tefillin) (tiếng Hebrew: תְפִלִּין) là những hộp hình vuông bằng da để đựng các câu trích từ Kinh thánh đeo ở trước trán và quấn quanh tay trái bằng các sợi dây da. Người ta đeo nó trong các buổi cầu nguyện ban sáng mỗi ngày.


Kittel là áo vải trắng, dài tới đầu gối thường được các chủ tế hoặc tín hữu mặc trong các dịp Lễ trọng. Theo truyền thống, gia trưởng sẽ mặc áo này trong bữa tối Lễ Vượt qua, một số chú rể cũng bận áo này dưới áo cưới. Khi qua đời, đàn ông Do Thái được choàng khăn tallit hoặc mặc áo kittel, đó là y phục tachrichim (đồ tang lễ).

Cầu nguyện

[sửa]
Một chàng trai trẻ người Do Thái đọc kinh cầu nguyện

Theo truyền thống, tín hữu Do Thái giáo cầu nguyện ba lần mỗi ngày và bốn lần trong ngày lễ Shabbat hoặc các ngày lễ khác của Do Thái giáo. Trọng tâm của mỗi buổi cầu nguyện là Amidah (tiếng Hebrew: תפילת העמידה) hay còn gọi là Shemoneh Esrei đây là lời nguyện chính bao gồm 19 lời chúc lành.

Một kinh nghiệm quan trọng khác là tuyên xưng đức tin, đó là Shema Yisrael (tiếng Hebrew: שמע ישראל) hoặc gọi tắt là Shema. Kinh Shema là trích dẫn lại các lời đã ghi chép trong sách Torah (Sách Đệ nhị luật 6:4)

Shema Yisrael Adonai Eloheinu Adonai Echad có nghỉa Này hỡi dân Do thái ! Thiên Chúa là Chúa chúng ta! Là Thiên Chúa duy nhất!

Cách thức cầu nguyện của các hệ phái Do Thái giáo cũng khác nhau. Các khác biệt có thể kể đến là kinh đọc, mức độ thường xuyên của các buổi cầu nguyện, số lượng kinh cầu trong các buổi phụng vụ, cách sử dụng nhạc cụ và thánh ca, các lời kinh cầu theo ngôn ngữ tế lễ truyền thống hoặc tiếng địa phương.

Sabbath

[sửa]
Người Do Thái cắt bánh mì xoắn (challah) để ăn trong ngày Shabbat
Người Do Thái cắt bánh mì xoắn (challah) để ăn trong ngày Shabbat
Người Do Thái hội họp ăn uống vào ngày Shabbat

Sabbath (tiếng Hebrew: שַׁבָּת), tưởng nhớ ngày nghỉ của Thiên Chúa sau sáu ngày tạo dựng vũ trụ. Sabbath là ngày nghỉ hàng tuần, bắt đầu từ lúc trước khi mặt trời lặn ngày thứ sáu và kết thúc sau khi mặt trời lặn vào ngày thứ bảy,

Ngày lễ này rất quan trọng trong việc thực hành đạo và được quy định trong giáo luật. Lúc mặt trời lặn ngày thứ sáu, người phụ nữ trong gia đình đón ngày Sabbath bằng cách thắp hai hoặc nhiều cây nến và đọc lời chúc lành. Bữa tối bắt đầu với Kiddush, lời chúc lành trên chén rượu, và Mohtzi, lời chúc lành trên bánh mì. Ngoài ra, trên bàn ăn còn có thể bày thêm challah, hai ổ bánh mì xoắn.

Trong ngày Sabbath, người Do Thái bị cấm làm những việc như đã quy định trong 39 danh mục hoạt động bị cấm trong ngày Sabbath. Những hành động bị cấm bao gồm: đốt lửa, viết lách, sử dụng tiền bạc hoặc mang vác ở nơi công cộng. Việc cấm đốt lửa trong thời kỳ hiện đại là cấm lái xe (vì có đốt cháy nhiên liệu) và sử dụng điện.

Đạo Do Thái Giáo có nhiều ngày lễ và những ngày lễ Do Thái được tính theo lịch Hebrew hay còn gọi là lịch Do Thái. Các ngày lễ của Do Thái giáo nhằm tôn vinh mối quan hệ giữa Thiên Chúa và thế giới, như là Sáng thế, Mạc khải, và Cứu thế.

Tết Do Thái (Tiếng Anh: Rosh Hashanah) (còn gọi là Yom Ha-Zikkaron ("Ngày tưởng niệm,") và Yom Teruah ("Ngày tiếng kèn Shofar"). Tết Do Thái là lễ Năm mới của Do Thái giáo, mặc dù nó là ngày thứ nhất của tháng thứ 7 Tishri, theo lịch Do Thái.

Tết Do Thái đánh dấu bắt đầu thời gian 10 ngày để đền bù tội lỗi chuẩn bị cho Lễ Đền Tội, trong thời gian này, người Do Thái sửa soạn tâm hồn, sám hối và làm việc đền bù tội lỗi đã phạm một cách vô tình hay cố ý trong suốt năm qua. Trong ngày lễ này, người ta thổi kèn shofar (kèn sừng cừu), trong đền thờ, người ta ăn táo và uống mật ong, đọc các lời chúc lành trên thực phẩm tượng trưng như quả lựu chẳng hạn.

Lễ Đền Tội (Tiếng Anh: Yom Kippur) (Hebrew: יוֹם כִּפּוּר) là một trong những lễ trọng của Do Thái giáo. Đó là ngày cộng đoàn tụ họp lại và cầu nguyện xin tha thứ tội lỗi đã phạm.

Các tín hữu cầu nguyện suốt ngày trong đền thờ, đọc kinh từ sách Mahzor, thỉnh thoảng có nghỉ một tí vào buổi chiều. Vào đêm lễ Lễ Đền Tội, trước khi thắp nến, người ta ăn nhẹ (suhoor). Nghi thức trong các đền thờ vào đêm Lễ Đền Tội bắt đầu với lời kinh Kol Nidre. Vào dịp lễ này có thể mặc quần áo trắng nhưng không được mang giày da. Ngày tiếp theo, người ta cầu nguyện từ sáng đến tối. Khi buổi cầu nguyện kết thúc ("Ne'ilah,") người ta thổi một hồi dài kèn shofar.

Ba lễ hành hương

[sửa]
Cộng đồng người Do Thái ăn mừng lễ lều tạm

Các ngày lễ thánh (haggim), để kỷ niệm các mốc trong lịch sử Do Thái giáo, như việc thoát khỏi đất Ai Cập, sự mạc khải của Thiên Chúa trong sách Torah, hoặc đôi khi đánh dấu sự chuyển mùa hoặc lúc giao mùa giữa các chu kỳ trồng trọt. Có ba lễ chính, đó là Lễ Vượt qua, Lễ Ngũ Tuần và Lễ Lều tạm. Trong ba dịp lễ này, các tín hữu thường hành hương về Jerusalem để dâng sự hy sinh trong Đền Thánh.

  • Lễ Lều Tạm (Sukkot) tưởng nhớ Con cái Israel phải mất 40 năm đi qua sa mạc để trở về miền Đất Hứa. Lễ này kỷ niệm việc dựng các lều tạm (sukkot) khi dân Israel lưu đày trên đất Ai Cập. Lễ này trùng với mùa thu hoạch hoa quả và đánh dấu sự kết thúc một chu kỳ trồng cấy. Người Do Thái từ tất cả các nơi trên đất nước sẽ hành hương tới đất thánh Jerusalem. Lễ Lều tạm kết thúc bằng lễ Shemini Atzeret (tiếng Hebrew: שמיני עצרת), (lễ người Do Thái cầu mưa) và Lễ Ăn Mừng Kinh Thánh Torah (Tiếng Anh: Simchat Torah) (tiếng Hebrew: שמחת תורה), là lễ đánh dấu sự kết thúc của sách Torah và bắt đầu một chu kỳ sách mới.
  • Lễ Vượt qua là ngày lễ nghỉ kéo dài một tuần, bắt đầu vào chiều tối ngày thứ 14 của Nisan (tháng thứ nhất theo lịch Do Thái), để tưởng nhớ ngày thoát khỏi Ai Cập. Các nước khác ngoài Israel, Lễ Vượt qua được mừng trong tám ngày. Thời xưa, lễ này trùng vào mùa gặt lúa mạch. Đây là lễ duy nhất tập trung cho các nghi thức được thực hiện ngay tại nhà, đó là "Bữa tối lễ Vượt qua". Thực phẩm có men (chametz) được mang ra khỏi nhà trước ngày lễ và suốt tuần sẽ không dùng thực phẩm có men. Nhà cửa được dọn dẹp sạch sẽ để bảo đảm không còn bánh mì trong nhà và vào buổi sáng của ngày lễ, người ta sẽ đốt tượng trưng chiếc bánh có men cuối cùng trong nhà. Bánh không men (Matzo) sẽ được dùng thay cho bánh mì.
  • Lễ Tuần (Shavuot) kỷ niệm sự mạc khải của sách Torah cho Con cái Israel trên núi Sinai. Đây còn được gọi là Lễ Bikurim (Lễ hội của hoa quả đầu mùa), lễ này trùng với mùa thu hoạch lúa mì. Trong ngày lễ Shavuot, người ta tổ chức học suốt đêm (Tikkun Leil Shavuot), ăn thực phẩm làm từ sữa (bánh phô-mai và bánh kếp mỏng được đặc biệt yêu thích), đọc Sách Ruth (tiếng Hebrew: מגילת רות), trang trí nhà cửa và đền thờ thành màu xanh lá cây, mặc quần áo trắng, tượng trung cho sự thanh khiết.
Tết Purim ở Tel Aviv gia đình người Do Thái hóa trang đi chơi dạo phố

Tết Phú Rim (tiếng Anh:Purim) (tiếng Hebrew: פורים Pûrîm) là lễ mừng, tưởng nhớ việc giải thoát dân Do Thái gốc Iran (Persian Jews) khỏi bị truy sát của Haman, người đã tìm để tiêu diệt họ, theo như Sách Esther đã ghi chép.

Trong ngày lễ này, người ta đọc Sách Esther ở nơi công cộng, trao tặng nhau thực phẩm và thức uống, làm việc từ thiện cho người nghèo, và ăn mừng (Esther 9:22). Các tập tục khác bao gồm uống rượu, ăn bánh "hamantash", mang mặt nạ, tổ chức diễu hành (carnival) và tiệc mừng.

Tết Phú Rim được kỷ niệm hàng năm vào ngày thứ 14 của tháng Adar theo lịch Do Thái, tương đương với tháng hai hoặc tháng ba của Dương lịch

Hanukkah, (tiếng Hebrew: חנוכה), còn gọi là Lễ hội Ánh sáng, là lễ kéo dài tám ngày bắt đầu từ ngày thứ 25 của tháng Kislev theo lịch Do Thái.

Trong dịp lễ này, người Do Thái sẽ thắp thêm một ngọn đèn theo số tăng dần của mỗi đêm lễ, đêm thứ nhất thắp một ngọn đèn, đêm thứ hai thắp hai ngọn đèn...cho đến đêm cuối cùng là tám ngọn đèn.

Lễ Hanukkah có nghĩa là "dâng hiến" vì nó đánh dấu việc tái dâng hiến Đền thờ sau khi đền thờ bị vua Antiochus IV Epiphanes báng bổ. Trong đức tin, Hanukkah nhằm tưởng nhớ "Dầu kỳ diệu". Theo sách Talmud, khi tái dâng hiến Đền thờ Jerusalem sau chiến thắng của phong trào Macabê đối với Đế chế Seleucid, chỉ còn đủ dầu thánh để đốt lửa vĩnh cửu trong Đền thờ trong một ngày. Kỳ diệu thay, lửa đã cháy trong tám ngày - đó là thời gian đủ để ép, chuẩn bị và thánh hoá dầu mới.

Hanukkah không được đề cập đến trong Kinh thánh và cũng chưa bao giờ được xem là lễ chính của Do Thái giáo nhưng lễ này đã được mừng rộng rãi ở nhiều nơi, chủ yếu là do lễ cũng trùng vào dịp Lễ Giáng sinh.

Thế kỷ thứ 19, bản đồ vẽ mối quan hệ giữa bốn thành phố thánh Do Thái Giáo. Vùng đất thánh Jerusalem ở phía trên tay phải, ở dưới Jerusalem là miền đất thánh Hebron. Dòng sông Jordan chạy từ trên xuống dưới. Mảnh đất thánh Safed ở phía trên tay trái, và khu đất thánh Tiberias nằm ở phía dưới vùng thánh địa Safed.

Tứ thánh địa Do Thái (Tiếng Hebrew: ארבע ערי הקודש) (Tiếng Yiddish: פיר רוס שטעט) bốn thành phố thánh địa Do Thái là: Jerusalem,Hebron, Safed và, Tiberias. Bốn khu thánh địa này là bốn trung tâm chính trong cuộc sống tâm linh của người Do Thái sau khi Ottoman chinh phục Palestine.

Khái niệm "thành phố thánh địa" bắt đầu từ năm 1640, sau đó thành phố Tiberias được coi là thành phố thánh địa vào năm 1740, là kết quả của việc tạo ra liên kết giữa các thành phố để thu thập quỹ từ thiện cho người nghèo.


Jerusalem

[sửa]
  • Jerusalem là thánh địa thiêng liêng nhất đối với đạo Do Thái Giáo và là trung tâm tâm linh của dân tộc Do Thái từ thế kỷ thứ 10 TCN khi mà khu đất này được Vua David chọn để xây dựng Đền thờ Jerusalem Linh Thiêng. Vùng đất thánh địa Jerusalem liên kết với thuộc tính của Lửa (Hỏa) (liên quan đến ngọn lửa thiêng linh tiếp tục bốc cháy trong Đền thờ Jerusalem).

Hebron

[sửa]

Trong lịch sử, miền đất Hebron là thủ đô đầu tiên vào thời đại Vua David. Miền đất thánh địa Hebron liên kết với thuộc tính của Đất (Thổ) (liên quan đến hang động là nới chôn cất của các tổ phụ nam và tổ phụ nữ).

Safed

[sửa]
  • Safed (Tz'fat) được coi là thành phố thánh sau khi người dân tộc Do Thái bị trục xuất khỏi Tây Ban Nha năm 1492 và dòng người Do Thái chảy về Safed. Safed được coi là trung tâm học thuật Kabbalah. Safed liên kết với thuộc tính của Không Khí (liên quan đến tinh thần huyền bí của đạo Do Thái Giáo).

Tiberias

[sửa]
  • Tiberias quan trọng trong lịch sử Do Thái vì đây là nơi Kinh Thánh Jerusalem Talmud được hợp thành và là quê hương của các học giả Do Thái Masoretes. Tiberias được coi là vùng đất thánh khi các thầy đạo Do Thái chảy về đây vào thế kỷ 18 và 19 để thành lập trung tâm học hành của người Do Thái.

Dựa vào truyền thống Do Thái, sự Cứu rỗi sẽ bắt đầu ở TiberiasSanhedrin sẽ được tái tạo ở đó The Messiah will arise from the lake of Tiberias, enter into the city, and be enthroned at Safed on the summit of a lofty hill.. Đấng Messiah (Đấng Cứu Thế, Đấng Cứu Rỗi) sẽ nổi lên từ hồ nước ở Tiberias, vào thành phố, và được lên ngôi ở Safed trên đỉnh một ngọn đồi cao cả.

Xem them

[sửa]